unemployment job board
© Postmedia News
Chiếc xe buýt màu vàng đặc trưng để chở học sinh phổ thông đừng lại trước một tòa nhà cao tầng trên đường Alexandria, thành phố Kitchener, Canada, mỗi buổi sáng lúc 8 giờ 55 phút.

Vài chục học sinh, hộ tống bởi chừng đó phụ huynh, lần lượt lên xe để tới trường. Sau khi đưa con ra xe, giơ tay chào vẫy, những phụ huynh lại lặng lẽ trở về căn hộ thuê của họ. Đúng 15 giờ 10 phút, chiếc xe ấy trở lại tòa cao ốc, trả những đứa bé về với cha mẹ đang đợi chúng ở nhà.

Tại trường cũng thế, lúc vào học cũng như lúc tan trường, hàng trăm phụ huynh đỗ xe đưa đón. Cảnh tượng thường gặp ở mọi nơi trên đất Canada đủ để bạn mường tượng công việc thường ngày của rất nhiều người lớn trong độ tuổi lao động ở đất nước này. Họ thất nghiệp.

Tỉ lệ thất nghiệp "ảo", thị trường việc làm khốc liệt

Thống kê và báo cáo chính thức của cơ quan nhà nước luôn đưa ra một con số sạch sẽ rằng tỷ lệ thất nghiệp ở các vùng, các thành phố ở Canada dao động quanh mức 5% - 8%, và với người trẻ là 13%.

Con số này được nói dối theo một cách khác, bởi định nghĩa thất nghiệp là trong vòng 4 tuần trước điều tra, người được hỏi muốn đi làm nhưng không thể tìm được việc làm dù chỉ một giờ, có trả lương.

Định nghĩa này loại bỏ ít nhất 20% những người không muốn tìm việc do thích nhận phúc lợi xã hội, hoặc không muốn làm các công việc không tương xứng. Định nghĩa này, theo chiều ngược lại, lại bao gồm tất cả những người làm việc bán thời gian, từ vài giờ, cho tới dưới 35 giờ mỗi tuần. Phần lớn người Canada, dù làm rất ít, cũng được xác định là không thất nghiệp. Khi tính đúng, tỷ lệ thất nghiệp hoặc thời gian làm việc không đáng kể của người Canada vào khoảng 35-40%.

Dù nằm trong nhóm G8 (những nước phát triển công nghiệp hàng đầu), nhưng 75% người lao động Canada đang làm việc trong nghành công nghiệp dịch vụ, và số còn lại trong ngành sản xuất và khai thác tài nguyên. 55% doanh nghiệp Canada có quy mô nhỏ, từ 1-4 người làm.

Có được một công việc toàn thời gian ở Canada được coi như trúng số. Hầu hết các doanh nghiệp đều chỉ muốn thuê nhân công bán thời gian để giảm chi phí cho các quyền lợi ngày nghỉ, bảo hiểm, và hưu trí của nhân viên. Khi lương tối thiểu tăng lên 14 dollar/giờ từ ngày 1/1/2018, được dự đoán rằng một đợt sa thải nhân công lớn sẽ bắt đầu do các doanh nghiệp không thể gánh được chi phí.

Năm 2015, sau 2 năm hoạt động, tập đoàn bán lẻ lớn Target của Mỹ đã đóng toàn bộ các cửa hàng trên Canada và sa thải 17,000 nhân viên. Năm 2017, tập đoàn Sears tại Canada tuyên bố phá sản sau 65 năm hoạt động, đóng cửa tất cả 130 cửa hàng và 12,000 nhân viên mất việc. Nhiều thành phố như Hamilton, cảng biển huy hoàng một thuở với trên 500 ngàn dân, nay hoang tàn với số người thất nghiệp hơn một nửa.

Chỉ có các công việc ít kỹ năng, cần sức khỏe, không cần bằng cấp tại các hãng xưởng, nhà máy thì còn tương đối dễ kiếm.

Mọi công việc mang tính văn phòng hơn, có thể bạn chưa biết rằng, có tới 80% thị trường việc làm tại Canada là không được công khai (hidden job), kể cả nhà nước hay tư nhân, dịch vụ hay học thuật (Fred Coon, CEO của công ty Stewart Cooper & Coon). Những công việc này dành cho những người đã rình rập sẵn tại đó nhiều năm trời thông qua các công việc thời vụ nhỏ, hay được giới thiệu bởi chính những người trong cơ sở ấy.

David M. có hai bằng thạc sỹ về môi trường và phát triển quốc tế đã làm không lương tại một công ty điện ở Cambridge trong hơn 3 năm trời, với hy vọng sẽ được vào một vị trí chính thức. Nhiều giáo viên phổ thông ở Ontario đã làm vị trí giáo viên thay thế (subtitute teacher) trong 10 năm để hy vọng thế chân ai đó về hưu.

20% [việc làm] còn lại được thông báo tuyển dụng công khai thì mức độ cạnh tranh là không tưởng tượng nổi. Năm 2012, khi tuyển 03 vị trí bác sĩ nội trú (residency) cho 01 bệnh viện ở Ontario, người ta nhận được 1.400 hồ sơ. Hồ sơ xin việc cho một vị trí bất kỳ nhiều đến mức những người quản trị nhân sự không thể đọc hết, và họ phải sử dụng máy quét, Linkedn, hay Google + để lọc bỏ sơ bộ tới 90%. Chưa tính đến nội dung, bất cứ lỗi chính tả nào trong thư, đều bị loại tức khắc.

Di cư vì việc làm, bằng cấp không nhiều ý nghĩa

Với sự hỗ trợ của Chính phủ khi đi học sau phổ thông, người Canada thường bước vào tuổi trưởng thành với rất ít hỗ trợ của cha mẹ. Sau tốt nghiệp đại học, nỗi lo lắng lớn nhất là việc làm và thanh toán các khoản nợ từ thời sinh viên.

Holly H., vô cùng sung sướng khi lần đầu nhận được một vị trí nhân viên hành chính hợp đồng, sau 5 năm tốt nghiệp đại học làm đủ nghề từ chạy bàn đến bán hàng thức ăn vật nuôi. Không còn lựa chọn ở những thành phố lớn, bất cứ nơi nào có việc làm, dù tạm thời một hay vài năm, người Canada cũng sẵn sàng di chuyển.

Vợ chồng Minaker đều có bằng thạc sĩ đã chuyển đến Timiskaming xa xôi cho một chân quản lý tại một nhà máy nhỏ. Nhiều người cùng gia đình chấp nhận đến sống tại Shibogama sát cực bắc, nơi chỉ là vùng bảo tồn vài trăm người dân tộc trong hàng trăm dặm vuông, và mất tới 5 chuyến bay từ Toronto để tới được đó, để được hưởng đãi ngộ chuyên gia trong vài năm trước khi tìm thấy một công việc nào đó ở thành phố.

Việc làm, nỗi sợ hãi nhức nhối nhất khiến cho mọi giấc mơ ngày càng nhỏ lại.

Khái niệm công việc gắn bó cả đời là cực kỳ xa xỉ. Cơ quan thống kê Canada báo cáo rằng, trung bình mỗi người Canada thay đổi công việc của họ 13-17 lần trong đời. Bằng cấp cũng không đem lại nhiều tác dụng, nhất là các chuyên ngành không mang lại lợi nhuận.

Sarah K. có bằng tiến sĩ tâm lý, làm việc lay lắt bán thời gian tại một trung tâm nghiên cứu nhỏ tại Kitchener có dưới 10 nhân viên với đồng lương chỉ gấp rưỡi lương tối thiểu. Làm cùng trung tâm với Sarah, Kimie G., một thạc sĩ xã hội học, di chuyển 200 km mỗi ngày từ Toronto cho công việc bán thời gian của cô.

Những người tốt nghiệp với tấm bằng kinh tế, tài chính, quản trị kinh doanh cũng khốn khổ không kém. Daniel S. không thể tìm việc với tấm bằng đại học kinh tế của mình và trở thành thợ lò sưởi. Aruz M., thạc sĩ có bằng MBA, hài lòng chấp nhận vị trí giao dịch viên (teller) ở một ngân hàng.

Không mơ ước quá xa xôi, mọi cố gắng chỉ tập trung vào việc giữ công việc bằng mọi giá. Bởi cho dù có bằng cấp hay kinh nghiệm, khi bị mất việc do công ty phá sản hay thua lỗ, người lao động cũng ngay lập tức rơi xuống vực thẳm bởi tìm lại một công việc tương tự là quá cạnh tranh.

Cuộc sống của người nhập cư tại Canada không hào nhoáng như quảng cáo

Tìm việc với người Canada khó khăn đến vậy, nhưng với người nhập cư và sinh viên du học, còn khó gấp bội lần. Gần như không có sự điều hòa nào giữa hệ thống nhập cư của Chính phủ Canada (CICC) và tình hình việc làm thực tại. CICC cho tăng nhập cư liên tục, và số người nhập cư mắc kẹt với cuộc sống cũng tăng liên tục.

Trên những diễn đàn của những người nhập cư Canada (có cả những diễn đàn của người Việt), việc làm là chủ đề chính và bế tắc.

Khi tìm việc, người nhập cư vấp phải rào cản về ngôn ngữ, kỳ thị bằng cấp, yêu cầu kinh nghiệm làm việc tại Canada... Sau này, khi người nhập cư thông qua việc đào tạo lại trong môi trường giáo dục Canada cũng không có gì đảm bảo họ có thể kiếm được một công việc, cho dù chỉ là công việc tạm thời, bán thời gian.

Tỷ lệ người làm tình nguyện ở Canada thuộc hàng cao nhất thế giới, bởi hy vọng mỏng manh về cơ hội chuyển hóa thành việc làm thực. Ở Việt nam, các trung tâm môi giới du học ngày càng leo thang quảng bá về khả năng định cư và làm việc sau khi học, dù chỉ là cao đẳng, với các mức lương tầm chuyên gia. Chỉ đến khi mắc kẹt, nhận ra sự lừa dối của quảng cáo, thì có thể đã quá muộn.

Siddartha J., một bác sĩ nhi khoa từ Nepal, có bằng tiến sĩ y tế công cộng tại Hàn Quốc, sau nhiều năm không thể tìm việc đã chấp nhận một công việc chân tay tại hãng sản xuất đồ uống.

Chiangpu M., bác sĩ gây mê hồi sức từ Srilanka đã nhanh chóng nhận ra sự khó khăn, liền chấp nhận học lại 2 năm lấy bằng y tá để được nhận vào làm việc tại phòng cấp cứu bệnh viện.

Không thiếu những người có bằng cấp, giáo sư, bác sĩ, kỹ sư tại quốc gia của họ ở châu Âu, Á hay Trung Đông sau nhiều vật vã đã trở thành những tài xế Uber, nhân viên quét dọn, chủ cửa hàng tạp hóa bất đắc dĩ. Nhiều trí tuệ bị hoang phí, và nhiều giấc mơ vụn vỡ theo nhiều cách khác nhau.

Canada mất dần sự quyến rũ

Lỗi đến không chỉ từ các con số thống kê quan liêu và không chính xác về nhu cầu việc làm và khả năng đáp ứng của thị trường, mà còn từ vô số các tổ chức ăn theo chính sách nhập cư, người nhập cư, và nhận tiền từ chính phủ.

Trong một thành phố dù không lớn, cũng có đến hàng chục tổ chức hoạt động dưới danh nghĩa trợ giúp người nhập cư ổn định hòa nhập cuộc sống và tìm việc làm thông qua dạy tiếng Anh miễn phí và sửa lý lịch để xin việc, mà kết quả thì cực kỳ khiêm tốn.

Nhưng người nhập cư cũng sớm nhận ra tình trạng thực tế và lên phương án đối phó theo các tiêu chí riêng cá nhân. Chính phủ kỳ vọng người nhập cư đến các khu vực xa xôi, thì ngược lại, hầu hết họ đổ về những khu vực đã phát triển, khí hậu tốt, công ăn việc làm có thể dễ kiếm hơn, giáo dục và y tế cũng thuận lợi hơn.

Sự quyến rũ của Canada mất đi dần dần, để lại sự buồn chán sau vài năm không tìm được việc hay công việc bấp bênh, hoặc sau các công việc tình nguyện vô vọng, nhất là những người nhập cư ở diện tay nghề. Họ lùi về tư thế phòng thủ, cố gắng nhận tối đa phúc lợi có thể và để dành số tiền thực của mình. Họ sống ở Canada, nhận phúc lợi, và hồn thì để ở quê nhà.

Connor P., một người nhập cư gốc Ireland đã trên 20 năm nhưng không nhập quốc tịch Canada, và vẫn ngóng một ngày tuổi già về quê cũ. Ferhad F., một kỹ sư người Kurd và vợ không có việc làm và nguồn thu nhập chính của gia đình đến từ phúc lợi của 6 đứa con mà họ sinh liên tục kể từ khi đặt chân đến Canada.

Có những làn sóng phản đối nhập cư của người Canada bản xứ. Họ cho rằng chính sách nhập cư bị đẩy đi quá xa, nhằm các mục đích chính trị hơn là lo lắng cho người dân. Người nhập cư thì chỉ trích chính phủ vì đã thổi phồng quá mức về cơ hội việc làm, và chính sách mang con bỏ chợ.

Việc cho phép nhập cư đa dạng với đủ mọi thành phần đang khoét sâu thêm mẫu thuẫn giữa người bản xứ và người nhập cư, giữa các sắc tộc nhập cư, và ngay trong bản thân các cá nhân nhập cư của sắc tộc đó vì họ cho rằng có quá nhiều sự không công bằng.

Tuy vậy, những người nhập cư không phải là những người khốn khổ, bởi nhập cư là con đường họ lựa chọn. Chính những công dân Canada mới là những người khốn khổ hơn, đối diện với những khó khăn hiện tại và sự bấp bênh của tương lai, bởi vấn đề nan giải nhất: Việc làm.