Vietnam bronze drum
1) Đất nước Việt Nam tuy nhỏ bé nhưng lại là một nước có "rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu" lại nằm trong vị trí chiến lược quan trọng của Đông Nam Á nên bị các nước lớn luôn nhòm ngó và mong chiếm đoạt.

2) Dân tộc Việt Nam tuy nhược tiểu vì hoàn cảnh lịch sử bị chiến tranh triền miên nhưng lại là một dân tộc kiêu hùng, không bao giờ chịu khuất phục trước quân xâm lược, luôn có khát vọng độc lập mưu cầu hạnh phúc cho giống nòi. Dân tộc này luôn gắn bó với đồng bào, với quê hương xứ sở qua một sợi dây huyết thống "một trứng trăm con" như truyền thuyết tổ tiên đã dạy.

3) Những huyền thoại về dã sử không phải là những chuyện phiếm như những kẻ ngông cuồng theo đạo của giặc thường cười đùa, thậm chí còn cho là từ ma quỉ satan. Không phải thế. Cổ tích "Con Rồng Cháu Tiên" là lối khẩu truyền của tổ tiên ta từ thời xa xưa để nhắc nhở con cháu hậu duệ niềm hãnh diện về dòng giống cao cả lâu đời của mình; "Lạc Long Quân-Âu Cơ" cốt nói đến dân tộc ta tuy khác nhau vùng miền, phong tục, giọng nói nhưng đều trăm trứng sinh ra chung từ một bọc, vì thế mới có chữ 'đồng bào', không nên để ai chia rẽ; "Thánh Gióng" muốn nói đến một dân tộc với nền văn minh nông nghiệp định cư, vốn yêu chuộng hòa bình, trông bên ngoài có vẻ yếu đuối như trẻ thơ, nhưng một khi đất nước bị ngoại xâm thì liền vươn vai đứng dậy đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi; "Nõ Thần" là khuyến cáo của tổ tiên rất tuệ mẫn sâu sắc luôn nhắc nhủ con cháu hậu duệ về nguy cơ mất cảnh giác, đừng bao giờ để cho giặc dùng mọi cách nham hiểm để lọt vào nhà, với ngày nay là truyền đạo, giao thương và ngay cả hôn nhân, để tìm biết và đánh cắp những báu vật hệ trọng trong nhà vốn có thể diệt tan giặc. "Sơn Tinh, Thủy Tinh" là một cách giải thích lãng mạn về vùng đồng bằng Bắc bộ luôn bị lũ lụt; v.v... và v.v...

4) Văn Hiến của Việt Nam tồn tại rất lâu đời có đến bốn ngàn năm đã hun đúc ra một nền văn hóa sâu sắc có thể miễn nhiễm với bất kỳ sự xâm nhập độc hại ngoại lai nào từ Á đến Âu, Mỹ.

Ngay cả Petrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898), một con chiên Công giáo La Mã và tay sai đắc lực cho thực dân Pháp ở cuối thế kỷ 19 đã phải nhìn nhận sự bất lực của mình trong việc ra công hãn mã cốt bình định dân tộc An Nam cho Pháp vì những lý do nêu sau, thể hiện qua bức thư 18 trang viết hồi Tháng Mười, năm 1881, gởi cho Blancsubé, đại biểu Nam Kỳ:

"Cách tốt nhất để đo lường tầm quan trọng của sự cân nhắc của thành phần An Nam không theo Thiên Chúa Giáo là nhắc nhở đến những căn bản của định chế gia đình An Nam gồm 3 yếu tố chính: a) Tầm quan trọng của tổ tiên. b) Quyền uy của người cha. c) Lòng hiếu thảo của con cái. Ba điểm này liên quan mật thiết với nhau đến mức là việc xóa bỏ bất cứ một điểm nào cũng sẽ hủy diệt toàn bộ cấu trúc xã hội."

Ý họ Trương là khoe với chủ rằng mình đã tìm ra được "tử huyệt" của dân tộc Việt và muốn cố vấn cho quan thầy cách điểm các huyệt ấy thì việc cải đạo họ không mấy khó. Thực ra họ Trương đã không nêu ra đầy đủ về bức tường thành văn hóa dân Việt đã chống lại sự xâm lược của ngoại bang: d) tín ngưỡng thờ cúng ông bà, và tín ngưỡng tam giáo hay đa giáo thắm thiết kết nối các thế hệ xưa nay với nhau không thể phân lìa; e). Giềng mối gắn bó sâu sắc với ruộng đồng, quê hương, đất nước và tình tương thân tương ái khắn khít trong gia đình, bà con chòm xóm láng giềng. f) Lòng kính trọng quân, sư, phụ (vua, thầy và cha, hay rộng hơn đất nước, giáo dục và gia đình) trong nề nếp xã hội.

Niềm tín ngưỡng tam giáo trên đã chan hòa trong huyết quản của con dân Việt từ bao đời mà không cần phải có ai thường xuyên nhắc nhủ. Nó nhẹ nhàng, tự nhiên như môi trường dân Việt sinh sống. Minh triết của nó không giống với đạo Công giáo La Mã du nhập về sau, ở chỗ là không đòi hơn kém, không tranh đua chém giết, sống hòa đồng với mọi người và luôn kêu gọi từ bi nhân ái ngay cả với súc vật; hợp với lòng yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt.

6. Vì nhận thấy vai trò của sĩ phu không theo giặc đã đóng một vai trò rất lớn trong sự nghiệp kháng chiến giải phóng dân tộc nên tên cố đạo cáo già Paul-François Puginier, Giám mục địa phận Tây Bắc Kỳ và Hà Nội từ năm 1868-1892 vào thời Vua Tự Đức, thời mà Petrus Ký được trọng dụng; ngay sau khi được Vatican và hội Thừa Sai Paris cử đến Việt Nam để thay thế cho người tiền nhiệm Theurel vừa qua đời, y đã xông xáo đi khắp vùng ở Bắc kỳ làm tình báo cho Pháp và thường xuyên ghi chép các mật thư như là 8 khuyến nghị cho các Toàn quyền, đồng thời tuyển mộ lính đạo bản xứ cho Pháp để bình định khắp nơi. Ba mục tiêu quan trọng mà Puginier nhắm đến là 1) Phải tiêu diệt các quan lại địa phương và giới sĩ phu hay các nhà nho. 2) Phải nhanh chóng thay thế chữ Hán Nôm bằng chữ La-tinh để vai trò của giới quan lại và sĩ phu bị suy yếu. 3) Phải "Công giáo toàn tòng hóa quốc gia này" (christianiser le pays). Y đã xác quyết rằng "để tạo sự đoàn kết cho con người và dân chúng", không có mối ràng buộc nào mạnh hơn niềm tin, và một khi một Quốc gia Công giáo đã thành công trong việc cắm chặt tôn giáo của nó ở các thuộc địa, quốc gia đó có thể an tâm. Chúng ta sẽ không bao giờ thấy một thuộc địa Công giáo nào ruồng bỏ mẫu quốc của nó và liên kết với bọn ngoại giáo láng giềng để chống lại nó". Y tin tưởng rằng "ngay khi Bắc Kỳ trở thành Công giáo", nó cũng sẽ trở thành một Nước Pháp Nhỏ của vùng Viễn Đông, tất nhiên, ở một chừng mực nào đó giống như Phi luật tân là một Tây Ban Nha Nhỏ". "Do đó chương trình mục vụ gồm các nhà truyền giáo sẽ là nòng cốt trong chiến lược này"

Y đã đóng vai trò không nhỏ đưa đến việc ký Hòa Ước Pentenôtre vào năm 1884, An nam chịu sự bảo hộ của Pháp, có nghĩa là bị Pháp cai trị toàn cõi Đông Dương.

Nhưng than ôi, mộng ước của Puginier đã không thành với sự thất vọng của Vatican.

5) Thời thế có đổi thay lúc vầy lúc khác, quân xâm lược có lúc đắc thắng hả hê bắt dân ta làm nô lệ, nhưng lịch sử chứng tỏ rằng dòng giống Lạc Hồng rốt lại vẫn tự giải phóng giành độc lập cho tổ quốc mình. Khi đất nước lâm nguy vẫn xuất hiện những bậc vĩ nhân cứu dân độ thế. Trước thế kỷ 19, một khi đất nước được giải phóng thì nhân dân được vui hưởng thái bình; nhưng ngày nay sau khi tổ quốc được thống nhất vào năm 1975 vẫn còn một bộ phận nhỏ trong nhân dân, nhất là giáo dân Công giáo trong và ngoài nước luôn tìm mọi cách chống phá đất nước, gây chia rẽ dân tộc. Nguồn gốc do đâu? Do ở chính đạo Công giáo La Mã.

6) Ở thời cận đại, bọn thực dân phương tây đã cấu kết với Vatican xử dụng một loại vũ khí mềm rất hiệu quả từ thời đế quốc La Mã để cùng với đội quân hùng hậu đi chinh phục châu Âu, bắc Phi và vùng cận đông quanh Địa Trung Hải. Công giáo La Mã là một Thiên Chúa giáo đã bị chính trị hóa.

Giáo lý Công giáo La Mã gồm trong bốn sách phúc âm khái quát nói về một Jesus như một đạo sĩ trừ quỷ và kẻ chữa lành mọi bệnh đã rao giảng trong các dụ ngôn về Nước Thiên Chúa sắp đến. Nhưng mục đích của Vatican và La Mã không phải là dùng giáo lý ấy để cứu rỗi ai mà để khống chế nhân loại

Ngày nay ở tây phương rất nhiều học giả về Kinh Thánh, sau khi khảo cứu cặn kẻ trên thực địa vùng Trung Đông, cùng nghiền ngẫm các cổ kinh suốt lịch sử tín ngưỡng của các nền văn minh trong vùng còn lưu truyền; họ đã đưa ra những bằng chứng rất đáng thuyết phục rằng không hề có một nhân vật Jesus lịch sử mà chi là hư cấu. Cuốn Kinh Thánh là một tác phẩm giả tưởng mượn từ các chuyện thần thoại do con người tức các giai cấp cầm quyền đương thời chế tác để mê hoặc lòng người mà cưỡng bức tín ngưỡng cốt trị dân.

Bốn sách Phúc Âm trong bộ Tân Ước đều được viết sau năm 70 CN, là năm đền thánh Do thái giáo ở Jerusalem bị quân La Mã dưới sự chỉ huy của tướng Titus Flavius đốt phá tan tành trong các chiến dịch dẹp tan các cuộc nổi lọan của dân Jews. Cuốn được cho là của Mark có lẽ được viết từ khoảng 70, Matthew và Luke khoảng 85-90, và John khoảng 110. Mặc dù mỗi cuốn mang một tên tác giả nhưng thực ra do rất nhiều người viết; những cuốn sau phần lớn đều chép lại từ cuốn Mark ở từng giai đoạn khác nhau và nhắm đến các đối tượng khác nhau cho nên các cuốn Phúc Âm đã bị tam sao thất bổn không đồng nhất. Cuốn John lại thêm thắt và thần linh hóa các câu chuyện liên quan đến Jesus. Họ đều ẩn danh và không phải là các nhân chứng. Các cuốn này đều được viết bằng tiếng Hy Lạp, có vẻ từ Alexandria Ai Cập trong khi ngôn ngử thời ấy ở Jerusalem là Aramaic.

Vì thế ngày nay các học giả cho rằng đạo Thiên chúa là do triều đại Flavius chế tác ra vào thế kỷ thứ nhất; và đến năm 325, thế kỷ thứ 4 thì được hoàng đế Constantine I, có tên đầy đủ là Flavius Valerius Aurelius Constantinus Augustus, sau khi chủ tọa cộng đồng Nicaea đã thừa nhận nó là quốc giáo và biến nó thành một công cụ chính trị trong việc bành trướng và cai trị đế quốc. Cũng chính hoàng đế này đã cho lập ra Vatican và lệnh gọi bộ kinh gồm Cựu và Tân Ước là 'Thánh' Kinh từ đó; rồi thiết chế các giáo luật chặt chẽ. Như thế có nghĩa là Chúa trên trời hay dưới đất đều do con người tạo ra, chứ không phải ngược lại, để phục vụ cho tham vọng của con người mà thôi.

Các hoàng đế La Mã đã biết từ bài học của dân Jews rằng "đồng tín ngưỡng tức là đồng chính kiến, biến dân chúng thành một khối đồng nhất dễ uốn nắn theo ý mình muốn trong chính trị".

7) Vatican là đầu não chuyên lo bành trướng "nước chúa" khắp thế giới với hàng ngũ cán bộ tôn giáo được huấn luyện nhuần nhuyển và trung thành tuyệt đối với sự chỉ đạo của giáo hoàng da trắng; nó là một trong hai gọng kìm hữu hiệu của chiến lược xâm lược "nước người" để mở mang "nước chúa" của bọn thực dân cũ và mới Âu Mỹ. Chiến lược "Dùng đạo chiếm đời".

Mọi lợi nhuận vật chất kếch sù đều được chia chác sòng phẳng giữa các tay chơi, và phần rơi rớt sẽ ban cho bầy chiên trong chuồng. Vào giai đoạn lich sử đen tối ở châu Âu, còn gọi là thời Trung Cổ, giáo hoàng trở thành 'vua của các vua' trong đế chế La Mã Thánh (Holy Roman Empire: 800-1806) gây biết bao tang thương cho nhân loại do phát động triền miên các cuộc chiến tranh tàn sát khắp vùng, đồng thời làm ra những tội ác tày trời.

8) Trong thời kỳ thực dân toàn cầu ở thế kỷ 15, khi muốn thăm dò tình hình chính trị, kinh tế và quân sự ... của dân bản xứ, chúng đã dùng các giáo sĩ làm gián điệp dưới chiêu bài truyền đạo, dùng tàu thuyền giấu sẳn súng ống vờ làm việc giao thương buôn bán. Một khi xâm chiếm được nước ngừơi chúng liền dùng đám giáo sĩ ra sức cải đạo dân chúng để tạo ra một lực lượng tay sai trung thành, sớm trở thành lính đánh thuê cho chúng để quay lại đàn áp nhân dân. Chúng dùng ngay tài sản vơ vét được ưu đãi một số dân bần cùng để đổi đời cho họ và trở nên những nô bộc không thể tách rời.

Cái tín ngưỡng xa lạ mới này đã giúp bọn trở cờ cảm thấy mình được văn minh lây khi khúm núm hèn hạ trước chủ ông da trắng, tạo nên một thành phần chủ nhân cai trị địa phương, giáo sĩ, nhà thờ, và ra sức vơ vét của cải khắp nơi trở thành bọn cường hào ác bá hống hách với đồng bào khốn khổ của mình vì luôn được bọn thực dân bao che. Thành phần phản bội và phản quốc này từ ngày được rửa tội đã mang căn cước nước Vatican, được nhồi sọ và tự cho không thuộc về đất nước mình được sinh ra mà là "dân chúa... chọn", và chỉ trung thành với Vatican xa tít mù xa, và họ đã nhanh chóng biến thành bầy chiên bốn chân ngây thơ khờ dại để cho bọn "chăn chiên" nham hiểm dẫn dắt. Vì thế họ đã được dạy từ đó cắt lìa với tổ tiên bằng cách đập phá bàn thờ gia tộc, không còn tình tự dân tộc với đồng bào, không chia xẻ cùng một dòng lịch sử cha ông gầy dựng, chê cười nền văn hóa cổ truyền để chạy theo một nền văn minh mới sang cả hơn.

Họ đã chọn con đường "nhận giặc làm cha" và sẳn sàng phản bội tổ quốc để cúc cung phụng sự cho chủ nhân da trắng mới. Tuy họ luôn miệng nói mình là "người Việt", nhưng hành xử cứ của họ như dân ngoại kiều tạm sống nhờ cô lập trên đất nước cưu mang mình, vô hình chung cô lập và tách rời khỏi đại khối dân tộc trong những làng đạo, xứ đạo được bọn thực dân bảo vệ và ngay cả được chúng cung cấp súng đạn vũ khí để tự vệ trước các kháng chiến quân. Dần dà, sự đổi đời này biến thành truyền thống và các thế hệ sau mang cùng tâm cảnh không thể gột bỏ được.

Với tâm cảnh làm tay sai cho giặc và hoàn cảnh éo le như thế, nên thành phần này không gắn bó được với quê hương xứ sở. Một khi thế cuộc đổi dời thì phải luôn chạy theo gót chân giặc chỉ vì sợ nhân dân trả thù cho tội ác của mình; rốt lại mọi tài sản tham lam vơ vét được đều phải bỏ lại, tay trắng lại hoàn trắng tay.

Điển hình là hai cuốc di cư vĩ đại của giáo dân vào các năm 1954 và 1975 theo sự chỉ đạo của Vatican và bọn thực dân cũ và mới để sống đời lưu vong lang bạc. Ngay cả thành phần giáo dân trong nước hiện nay cũng bị đám tay sai ngoại bang hải ngoại xúi dục chống phá sự an bình của đất nước để muốn sống lưu vong ngay chính trên quê hương mình.

Sau đệ nhị thế chiến, Vatican-Âu Mỹ đã vận động trong hậu trường chính trị thế giới, thời uy tín của Vatican còn cao, để mang Ngô ĐÌnh Diệm về cai trị miền nam theo đúng sách lược của cố đạo Puginier thời thực dân: Công giáo hóa miền nam càng nhanh càng tốt với hy vọng sẽ biến Việt Nam thành một xứ Phi thứ hai trong vùng. Nhưng thiên bất dung gian nên chỉ vỏn vẹn sau 9 năm với chính sách cải đạo gian manh, đàn áp thô bạo đại đa số nhân dân, cả một chiến lược tham lam đã bị sụp đổ và đưa cả dòng họ Ngô vào chỗ diệt vong. Tuy vậy họ vẫn cố đấm ăn xôi tái dựng lên một chế độọ Diệm không Diệm với một kẻ tân tòng Nguyễn Văn Thiệu để rồi cũng sau 10 năm vốn liến đầu tư của bao nhiêu thế kỷ đều trôi ra biển Đông.

Vì sao? Vì Vatican đã quá kiêu căng sau thế kỷ 15, với sự bành trướng nhanh chóng của bọn thực dân tây phương, khi đã Ki-tô hóa cả châu Âu, châu Mỹ, châu Phi và Phi-luật-tân nên chủ quan khi lấn chiếm lục địa Á châu, nơi có nền văn hóa tín ngưỡng lâu đời đã làm cho bọn họ thân bại danh liệt

Cuộc di tản của khoảng 2 triệu giáo dân ra khỏi Việt nam vào năm 1975 là một cuộc thất bại về chiến lược lâu dài của Vatican-Âu Mỹ. Trong lúc cấp bách họ nghĩ tạm thời học bài "Xuất Ê Díp Tô" (Exodus from Egypt theo Cựu ước) bảo toàn lực lượng nòng cốt của phe ta chờ ngày "phục hồi nước chúa" như kịch bản của năm 1954 di dân vào nam. Nhưng hai hoàn cảnh hoàn toàn khác nhau về cơ bản; và chính điều này đã làm cho cái cộng đồng Công giáo Việt nam vốn đã là thiểu số từ trong và ngoài nước lại càng xuống thấp hơn một cách tệ hại. Cứ nhìn ra các nước xung quanh trong vùng, một khi Công giáo La Mã không nắm được chính quyền và ép buộc cải đạo toàn tòng như cố đạo Pujinier mong muốn thì vẫn chỉ là một cộng đồng thiểu số, chẳng làm nên trò trống gì.

Từ ngàn xưa dân tộc Việt dù nghèo khổ, trong chiến trận vẫn không hề bỏ làng, bỏ quê để trốn chạy dù bị giặc ngoại xâm tàn phá. Họ vẫn bám trụ để tiếp tục kháng chiến. Thử nghĩ nếu tổ tiên ta cũng hèn nhát bỏ cả mồ mả tổ tiên để trốn chạy thì đã bị vong quốc từ lâu.

Vậy mà nay vài tên chăn chiên phản động vẫn nhận lệnh từ Vatican liên tục xúi giục giáo dân gây rối trong nước mong gây nên một cuộc "biến động miền trung" để lật lại thế cờ nhưng lại thiếu lửa nên chẳng được nhân dân ủng hộ lại trở thành lố bịch. Họ quên rằng Công giáo La Mã một khi không dựa vào vũ lực ngoại bang nắm được chính quyền trong nước thì chỉ là một con cáo mất hết răng, chiên vẫn hoàn chiên.

Điều đó đã làm cho cái "chính nghĩa cuốc ra" mà họ luôn lớn tiếng nhận vơ càng lúc càng lộ rõ bản chất vong bản của mình. Khi họ tạm thời được giặc Vatican-Pháp-Mỹ bao che đưa lên nắm chính quyền thì cứ tưởng rằng đó là chính nghĩa. Khi ở đỉnh cao quyền lực thì họ đã nhanh chóng đào tạo các hàng ngủ giáo dân nắm hết các chức vụ lãnh đạo đến nổi những nhà phân tích chính sách của Mỹ về sau đều thú nhận cái sai lầm lớn lao sau trận Điện Biên Phủ là họ đã dùng một thiểu số Công giáo để cai trị một nửa đất nước mà đa số là Phật giáo và dân lương.

Họ thường bị tẩy não bới Vatican và hàng giáo sĩ rằng Việt Minh, Cộng Sản là một lũ vô thần, vô gia đình, vô tổ quốc. Nhưng thực tế éo le thay lại chứng minh ngược lại. Thần ở đây muốn nói đến Thiên Chúa, chỉ là một khái niệm trừu tượng hoang tưởng để mê hoặc các dân tộc chậm tiến. Đúng! Cộng sản và dân Việt không hề tin vào loại thần nhảm nhí ấy, nhưng vẫn thờ cúng ông bà. Còn vô gia đình và vô tổ quốc thì thực tế đời sống của giáo dân thì ngày nay ai cũng rõ. Ai đã phá bỏ bàn thờ gia tiên để cắt đứt sợi dây gia đình? Ai đã luôn tìm mọi cách chống phá đất nước của tổ tiên (như tên chăn chiên Hoàng Quỳnh đã từng tuyên bố: Thà mất nước chưa không thà mất chúa) chỉ vì Vatican chống cộng từ thời giáo hoàng Pius XII (1876-1958). Ông ta đã lo sợ phong trào cộng sản lớn mạnh từ Nga và Chính thống giáo (Orthodox) có thể thay thế Vatican.

Qua đó ta mới thấy cụ Hồ và đồng chí của cụ biết lợi dụng thời thế để nhận được trợ giúp của Liên Xô và Trung Cộng mới đánh đuổi được quân xâm lăng Pháp Mỹ Vatican ra khỏi Việt Nam vào năm 1975; chứ thử nghĩ nếu tìm sự giúp đở của bọn thực dân thì ngày nay dân ta vẫn còn mang gong nô lệ. Đáng hãnh diện tay, dân tộc Việt Nam là dân tộc nhược tiểu đầu tiên trên thế giới đã đánh đuổi làm sụp đổ mưu đồ thực dân của một nước ở phương tây; và các nước bị trị đều đã được trao trả độc lập trước khi bọn thực dân phải chịu nhiều tổn thất và tốn kém.
Ho Chi Minh City, Vietnam
Thành phố Hồ Chí Minh hiện đại, lung linh
9) Trong sự may mắn của lịch sử; nước ta bước vào thế kỷ 21 với một tương lai xán lạng. Ngoài việc hội nhập trình độ đời sống chung của thế giới, kinh tế tăng tiến ngoạn mục từng ngày, đời sống của nhân dân trong nước được cải thiện nhanh chóng. Giới trẻ đã phát triển một cách thần kỳ, thông minh, xinh đẹp nhờ dinh dưỡng đầy đủ; họ còn được hưởng những tiện nghi tân tiến toàn cầu. Dân trí càng ngày càng dâng cao; giọng nói của dân ta sẽ dần có một âm ngữ chung toàn quốc nhờ đất nước thống nhất và sự đi lại giao thương bằng mọi phương tiện rất dễ dàng và nhanh chóng như ngày nay. Về tín ngưỡng và tinh thần: sẽ là một nước tiến bộ trong tư duy khoa học và tâm linh, thoát khỏi sự mê muội bởi sự áp đặt của Thiên chúa giáo như thời bị thực dân đô hộ.

Nhìn ra thế giới, mãi đến ngày nay những giống dân tin vào độc thần giáo Ki-tô vẫn chém giết lẫn nhau không dứt. Vậy Chúa cha và chúa con ở đâu mà không ra tay ngăn cản bầy con của mình tàn sát lẫn nhau?

10) Với khoảng 2 triệu gíao dân đã tháo chạy ra ngoại quốc từ năm 1975, phần lớn tụ tập ở Nam California sống trong cái ốc đảo bé tí mà vẫn hoang tưởng như mình đang cai trị toàn miền Nam Việt nam trước đây. Họ vẫn thói nào tật nấy, cứ dựa dẫm vào quyền lực của Vatican sống trong ảo vọng Chúa sẽ hạ trần cứu và mang họ về Việt nam để đè đầu cỡi cổ nhân dân như xưa. Họ không chịu chấp nhận sự thật của thực tê đổi thay nhanh chóng quanh họ; mãi chúi đầu vào cát như đà điểu khi gắp nguy nan; vẫn tổ chức cộng đồng nơi có đông người Việt sinh sống cứ như là một xứ đạo theo lối hành xử giang hồ riêng không theo pháp luật của đất nước mình ăn nhờ ở đậu, dùng mọi phương tiện nhồi sọ trấn áp theo thói "cả vú lấp miệng em" để hù dọa o ép những lương dân. Mặc dù họ luôn miệng kết án những vi phạm nhân quyền dân chủ trong nước nhưng họ còn mang rợ cứ như thời trung cổ. Họ không thể hòa nhập vào đời sống văn minh của dân bản xứ như thời cha ông họ còn theo giặc Pháp. Họ không thấy xấu hổ khi các hành động lố bịch của họ không gây một tiếng vang nào đến nền chính trị của Hoa Kỳ và Việt Nam nhưng cứ tưởng mình là cái rốn của vũ trụ. Thật đáng thương.

Quả thực đối với tín đồ Công giáo Việt có quốc tịch Vatican, việc chọn lựa "trung với nước, hiếu với dân" rất là khó khi nào họ vẫn còn bị chế ngự bởi Vatican và hệ thống giáo sĩ như hiện nay. Có lẽ cũng đã nhiều lần họ tự vấn nguồn gốc dân tộc của mình có phải là con rồng cháu tiên ở Đông Nam Á hay là dân Jews du mục với Moses, Abraham, ở vùng trung đông?

Ngày họ có thể sống chung với đồng bào ruột thịt của mình với tấm chân tình quả là khó thực hiện được khi nào mà họ không mạnh dạn tách rời khỏi cái hệ thống kềm kẹp tâm linh của Vatican để thành lập một giáo hội Việt Nam độc lập. Chắc chắn các thế lực ngoại bang không khi nào để chuyện ấy xảy ra một khi họ đã gắn vòng kim cô vào mỗi đầu con chiên Việt. Biết đâu sẽ có một vị chủ chăn với ý thức cao cả làm một cuộc cách mạng trong Ki-tô giáo như thế, lập ra một giáo hội Việt; bởi trong sâu thẳm họ vẫn còn tiềm ẩn chút lương tri của dân tộc.

Vẫn là mong ước; như là niềm ước vọng ngày dân tộc thoát khỏi xiềng xích nô lệ của thực dân và Vatican từ khi chúng đặt nền thống trị. Nhưng việc đó rốt cuộc vẫn xảy ra vào năm 1975; vậy thì chuyện gì cũng có thể xảy ra, tựa như thời nay các nước tây phương dần bỏ đạo Thiên chúa giáo. Điều mà ai có ngờ cách đây một thế kỷ?