Toxic fluoride
"Hãy nói một lời dối trá đủ dõng dạc và đủ lâu và mọi người sẽ đều tin vào nó."
- Adolf Hitler

"Cho flo vào nước uống là vụ gian lận khoa học lớn nhất thế kỷ."
- Robert Carlton, tiến sĩ, cựu khoa học gia tại Cục Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ, 1992

Lịch sử của việc buộc người dân uống nước có chứa chất fluor được thực hiện bằng những lời dối trá, sự tham lam và lừa bịp.

Các chính phủ thêm fluor vào nguồn nước uống và nhấn mạnh rằng là nó an toàn, mang lại lợi ích và là một điều cần thiết. Tuy nhiên, các bằng chứng khoa học chỉ ra rằng chất fluor không an toàn để cho vào cơ thể và các khu vực gần nguồn nước fluor có tỷ lệ cao hơn về các bệnh sâu răng, ung thư, nhiễm fluor nha khoa, bệnh loãng xương và một số vấn đề sức khỏe khác.

Bởi sức ép từ nền công nghiệp nhôm, các công ty dược phẩm và các nhà sản xuất vũ khí, fluor tiếp tục được bổ sung vào các nguồn nước trên khắp Bắc Mỹ và do các hành động pháp lý gần đây đối với các công ty nước cung cấp các nguồn nước chứa fluor, nhà nước Mỹ đã thông qua các luật mới nhằm ngăn chặn người dân khởi kiện để chống lại các nhà cung cấp nước fluor.

Có sự chống đối ngày càng tăng về việc thêm chất fluor độc hại vào nguồn nước của chúng ta. Nhưng thật không may, do fluor bắt đầu trở thành "huyết mạch của nền kinh tế công nghiệp hiện đại" (Bryson 2004), nên các tập đoàn khổng lồ sẽ mất rất nhiều vốn đầu tư nếu không tiếp tục bổ sung fluor vào nguồn nước uống.

Những lời dối trá về lợi ích của nước fluor sẽ tiếp tục được đưa ra công chúng, không phải để giúp ích cho sức khỏe của cộng đồng mà để tạo thêm lợi nhuận cho các tập đoàn công nghiệp quân sự.
Fluoride
Vâng, đây là thứ mà họ cho vào nước uống của chúng ta.
Câu chuyện bắt đầu từ năm 1924, khi Interessen Gemeinschaft Farben (I.G. Farben), một công ty sản xuất hóa chất của Đức, bắt đầu nhận được các khoản vay từ các ngân hàng Mỹ, dần dần dẫn đến sự hình thành tập đoàn I.G. Farben khổng lồ.

Năm 1928, Henry Ford và công ty xăng dầu American Standard (gia đình Rockefeller) đã sáp nhập tài sản với I.G. Farben và từ đó, đến đầu thập niên 1930, hơn một trăm công ty Mỹ và công ty con của chúng bắt đầu đã bắt đầu hoạt động ở Đức.

Tài sản của I.G. Farben ở Mỹ được kiểm soát bởi công ty American I.G. Farben, ban quản trị gồm: Edsel Ford - chủ tịch công ty Ford Motor, Chas. E. Mitchell - chủ tịch National City Bank New York thuộc Rockefeller, Walter Teagle - chủ tịch Standard Oil New York, Paul Warburg - chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang (Federal Reserve) và anh trai của Max Warburg - nhà tài chính của bộ quốc phòng Đức, Herman Metz - giám đốc ngân hàng ở Manhattan, được quản lý bởi nhà Warburgs, và một số các thành viên khác, ba trong số đó bị kết án là tội phạm chiến tranh Đức vì những tội ác của họ đối với nhân loại.
Năm 1939 theo thỏa thuận Alted, công ty nhôm Mỹ (ALCOA - lúc đó là nhà sản xuất chất fluor lớn nhất thế giới) và công ty hóa chất Dow dần chuyển giao công nghệ vào Đức. Colgate, Kellogg, Dupont và nhiều công ty khác cũng đã ký thỏa thuận hợp tác với I.G. Farben, tạo ra một nhóm quyền lực với tên gọi "bọn mafia fluor" (Stephen 1995).

Khi Thế chiến thứ 2 kết thúc, chính quyền Mỹ đã cử Charles Eliot Perkins, một cán bộ nghiên cứu về hóa học, hóa sinh học, sinh lý học và bệnh lý học, phụ trách các nhà máy hóa chất Farben rộng lớn ở Đức. Các nhà hóa học Đức nói với Perkins về một chương trình họ đã thực hiện với sự cho phép của Bộ tổng tham mưu Đức.

Họ giải thích về nỗ lực của họ để kiểm soát người dân ở bất kỳ khu vực nhất định nào bằng cách đổ fluor (sodium fluor - NaF) vào nguồn nước uống. Theo họ, đây là một chiến thuật rất thành công được sử dụng trong các trại tù binh Đức (nơi giam giữ tù binh Liên xô) để làm cho các trại nhân "ngu ngốc và ngoan ngoãn" (Stephen 1995).
Toxic sodium fluoride
Nhãn cảnh báo độc tính của muối natri fluoride
Farben đã lên kế hoạch trong suốt thời kỳ chiến tranh để thêm fluor vào nước uống của các quốc gia bị chiếm đóng, bởi vì chất fluor gây thiệt hại nhẹ cho một phần cụ thể của não bộ, làm cho con người cảm thấy khó khăn và lười biếng hơn để chiến đấu cho sự tự do của họ và làm cho người dân dễ bảo trước mặt chính quyền.

Fluor là một trong những chất điều trị rối loạn thần kinh mạnh nhất được biết đến, và có mặt trong khoảng 25% các loại thuốc an thần. Sẽ không có gì ngạc nhiên khi được biết rằng chế độ của Hitler thực hành kiểm soát tâm trí thông qua các chất hóa học, nhưng sau năm 1945 quân đội Mỹ nỗ lực nghiên cứu tiếp các chương trình kiểm soát tâm trí - tư tưởng của Đức quốc xã, khám phá các kỹ thuật để làm tê liệt một thế lực thù địch hay bình định cả một quốc gia bằng dược phẩm mạnh.

Như đã nêu trong báo cáo Rockefeller, một báo cáo được trình lên Tổng thống Mỹ về các hoạt động CIA, "chương trình dược phẩm là một phần nhỏ của chương trình CIA lớn hơn để nghiên cứu cách điều khiển hành vi con người" (Stephen 1995).

Thần thoại lừa bịp "phải uống fluor để phòng ngừa sâu răng" có nguồn gốc từ Mỹ năm 1939, khi một nhà khoa học có tên Gerald J. Cox, làm việc cho ALCOA, nhà sản xuất chất thải độc hại fluor lớn nhất (và vào tại thời điểm đó bị đe dọa bởi các tuyên bố về thiệt hại fluor), đã tiêm fluor vào những con chuột thí nghiệm, sau đó kết luận rằng fluor giảm sâu răng và tuyên bố rằng nó nên được bổ sung vào nguồn cung cấp nước của quốc gia.

Oscar R. Ewing
Luật sư Oscar Ewing, người đại diện cho các tập đoàn công nghiệp Mỹ trong chiến dịch thuyết phục dân chúng chấp nhận fluor như một chất có lợi cho sức khỏe thay vì một chất độc thần kinh.
Năm 1947, Oscar R. Ewing, luật sư lâu năm của ALCOA, được bổ nhiệm làm giám đốc Cơ quan An ninh Liên bang, một vị trí phụ trách Dịch vụ y tế công cộng (PHS). Hơn 3 năm sau, 87 thành phố mới ở Mỹ bắt đầu sử dụng nước có chứa fluor. Vì trong thí nghiệm của họ, tất cả các thành phố đều uống nước có fluor, nên họ không có một cơ sở so sánh khách quan nào với 1 thành phố uống nước bình thường.

Các nghiên cứu hàn lâm về fluor được tài trợ bởi phức hợp các tập đoàn sản xuất nhôm, phân bón hóa học, và vũ khí - những tập đoàn sản xuất fluor như một chất thải từ các nhà máy của họ. Để tránh chi phí cao trong việc xử lý chất thải fluor của họ, và để tăng lợi nhuận tích cực, họ bắt đầu bịa ra nhiều "nghiên cứu khoa học" tuyên bố lợi ích của fluor trong việc phòng ngừa sâu răng.

"Sự khám phá" rằng fluor có lợi cho răng, được tài trợ bởi các tập đoàn đang bị khởi kiện bởi người lao động và các cộng đồng bị nhiễm độc bởi chất thải fluor công nghiệp (Bryson 1995), đã biến một sự mất mát tài chính (khi các tập đoàn thua kiện) thành một phương thức mới để kiếm tiền.

Fluor là thành phần chất thải trong quá trình sản xuất thuốc nổ, phân bón và các thứ "thiết yếu" khác. Vì trước năm 1939 nó bị xếp hạng là một chất thải nguy hiểm, pháp luật đã buộc các nhà sản xuất thực hiện các bước xử lý chất thải này với chi phí rất cao. Như vậy, các tập đoàn rất muốn tìm một "ứng dụng" cho fluor để họ có thể bán nó và thu tiền từ chất này.

Thông qua sự giáo dục lại cộng đồng một cách xảo quyệt và ma mãnh, fluor, một chất thải được "vinh dự" trở thành một thành phần hoạt chất trong thuốc trừ sâu chứa fluor, thuốc diệt nấm, thuốc diệt chuột, thuốc mê, thuốc an thần, dược phẩm chứa fluor, và một số sản phẩm công nghiệp và gia dụng, gel nha khoa chứa fluor, nước súc miệng và kem đánh răng.

Các nhà công nghiệp Mỹ đã tài trợ ông Edward Bernays, được xem như là cha đẻ của PR, để khuyến khích sự chấp nhận của công chúng về fluor. Với một nguồn vốn lớn cho chiến dịch của ông, thiên tài Bernays đã lao vào lừa dối dân chúng để thuyết phục dư luận.

Edward Bernays propaganda mind control
"Cha đẻ của PR", ông Edward Bernays, được các tập đoàn công nghiệp thuê để lừa đảo dân chúng về sự thật xung quanh fluor.
Bernays giải thích rằng "thực tế bạn có thể khiến người dân chấp nhận bất cứ ý kiến gì về chăm sóc sức khỏe nếu các bác sĩ ủng hộ cho mình. Cộng đồng sẵn sàng chấp nhận nó bởi vì họ rất kính trọng và nể phục các bác sĩ, dù họ biết nhiều hay ít" (Bryson 2004).

Các bác sĩ xác nhận fluor như một chất có lợi cho răng miệng đã không biết được rằng các nghiên cứu về sự không an toàn của fluor hoặc là bị đàn áp hoặc là không được tiến hành do không ai dám đứng ra tài trợ.

Fluor dần đi chung với sự tiến bộ khoa học và kể từ khi nó được giới thiệu ra trước công chúng như một chất tăng cường sức khỏe, bổ sung vào nguồn nước uống vì lợi ích của trẻ em, những người chống đối fluor đã bị nhạo báng với các tên gọi xấu như kẻ điên, kẻ mê tín - nhảm nhí, v.v.

Fluor dần miễn nhiễm với các tin xấu về nó, không những là vì sự hỗ trợ không ngừng của các chiến dịch PR, mà còn bởi nó là độc tính tổng thể. Không giống như các chất hóa học có tác dụng ngay, fluor, một chất độc có hệ thống, tạo ra một loạt các vấn đề về sức khỏe, vì vậy ảnh hưởng của nó là gây khá nhiều khó khăn cho việc chẩn đoán.

Gần đây, các tài liệu mật của quân sự Mỹ như dự án Manhattan, cho thấy fluor là hóa chất quan trọng như thế nào trong việc sản xuất bom nguyên tử. Để sản xuất urani và plutoni chất lượng quân sự, các tập đoàn vũ khí đã cần đến hàng triệu tấn fluor.

Chất độc fluoride, không phải bức xạ nguyên tử, đã nổi lên như một mối nguy hiểm sức khỏe hóa chất hàng đầu cho cả người lao động và cộng đồng gần các nhà máy sản xuất vũ khí hạt nhân.

Khi các cộng đồng bị ảnh hưởng bắt đầu khởi kiện chống lại hành vi ngộ độc của các nhà máy, cán bộ khoa học trong chương trình vũ khí hạt nhân Mỹ nhận lệnh phải cung cấp bằng chứng hữu ích cho nỗ lực bào chữa của chính phủ. Để có được những "bằng chứng" này, họ bắt đầu bí mật thử nghiệm fluor trên các bệnh nhân vô gia cư và trẻ em chậm phát triển không hề được biết rằng họ đang điều trị bệnh bằng fluor.

Tạp chí tháng 8/1948 của Hiệp hội nha khoa Hoa Kỳ cho thấy bằng chứng về các tác dụng bất lợi từ fluor đã được kiểm duyệt bởi Ủy ban Năng lượng nguyên tử của Mỹ vì lý do "an ninh quốc gia" (Griffiths 1998). Báo cáo duy nhất được Hiệp hội công bố nói rằng fluor là an toàn cho người ở liều lượng nhỏ.

Trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh, bác sĩ Harold C. Hodge, người đã từng là nhà độc chất học cho các dự án bom nguyên tử của quân đội Mỹ, là một trong những nhà khoa học hàng đầu trong chiến dịch tuyên truyền dân chúng về lợi ích của nước chứa fluoride. Trong khi bác sĩ Hodge cam đoan với Quốc hội Mỹ về sự an toàn của nước fluoride, ông đã lén lút tiến hành các thí nghiệm về nước fluor công cộng đầu tiên của quốc gia tại Newburgh, New York, và bí mật nghiên cứu các mẫu sinh học từ công dân Newburgh tại phòng thí nghiệm quốc gia của ông tọa lạc trên Trường Đại học Rochester.

Vì không có ràng buộc pháp lý chống lại sự đàn áp của dữ liệu khoa học, kết luận duy nhất được Hodge công bố từ những thí nghiệm này là fluor là an toàn ở liều thấp, một bản án hết sức hữu ích cho quân đội Mỹ, những người lo sợ các vụ kiện đối với các chấn thương fluor từ công nhân trong các nhà máy điện hạt nhân và nhà máy đạn dược.

Ô nhiễm fluor là một trong những lo ngại pháp lý lớn nhất của các tập đoàn quân sự Mỹ trong chiến tranh lạnh.

Một nhóm bí mật các luật sư bào chữa, được gọi là Ủy ban Luật sư Fluoride, đã ký hợp đồng làm việc cho những tập đoàn sản xuất fluor lớn như Công ty Thép Hoa kỳ, ALCOA, Công ty Nhôm Kaiser, và Công ty Kim loại Reynolds. Trước một làn sóng các vụ kiện từ công dân khiếu nại đối với các chấn thương fluoride, họ tài trợ cho một loạt nghiên cứu mới tại Phòng thí nghiệm Kettering tại Đại học Cincinnati để "cung cấp đạn dược" (Bryson 2004) giúp họ bào chữa cho phía mình trong các vụ kiện.

Ủy ban Luật sư fluor và các đại diện y tế của họ ở Washington đã trực tiếp và thường xuyên tiếp xúc với các quan chức cấp cao của Viện quốc gia liên bang về nghiên cứu nha khoa. Trong những tiếp xúc đó, họ đã "chôn cất" cuộc nghiên cứu kéo dài 40 năm của Kettering, cho thấy rằng fluor đầu độc phổi và các hạch bạch huyết ở động vật thí nghiệm.

Vì lợi ích nhóm, các tập đoàn nói trên đã tìm cách hủy diệt nhân phẩm nhiều nhà khoa học chân chính và kiểm duyệt thông tin bằng cách đảm bảo rằng nếu các nghiên cứu khoa học có bất kỳ sự nghi ngờ nào về độ an toàn của fluor sẽ không được tài trợ, và nếu có, sẽ không được công khai những thông tin này.

Suốt những năm 1990, cuộc nghiên cứu được tổ chức bởi chuyên gia chất độc học ĐH Harvard - tiến sĩ Phyllis Mullenix, cho thấy rằng khi fluor hòa tan vào nước có thể dẫn đến giảm IQ, và gây ra các triệu chứng nghiêm trọng tương tự ở chuột như rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD). Chỉ vài ngày trước khi thí nghiệm của cô được chấp nhận công bố trong một tạp chí chuyên môn, Mullenix đã bị sa thải bởi giám đốc Trung tâm nha khoa Forsyth ở Boston.

Sau đó, lá đơn của cô để xin sự tài trợ cho công trình nghiên cứu tiếp về sự tác động của fluor lên hệ thống thần kinh trung ương bị từ chối bởi Viện Y tế quốc gia Hoa Kỳ (NIH). Đại diện NIH nói rằng "chất fluor hoàn toàn không gây ảnh hưởng đến hệ thống trung ương thần kinh" (Griffiths 1998).

Mặc dù có nhiều bằng chứng cho rằng nó có hại cho sức khỏe cộng đồng, nhưng các cơ quan sức khỏe cộng đồng liên bang và tiểu bang Mỹ, các tổ chức y tế và nha khoa lớn như Hiệp hội Nha Khoa Hoa Kỳ (ADA), vẫn tiếp tục khuyến khích dùng fluor. Chương trình bổ sung fluor vào nước uống vẫn được tiếp tục, mặc dù công đoàn các nhà khoa học thuộc Cơ quan bảo vệ môi sinh Hoa Kỳ đã đưa ra một lập trường mạnh mẽ chống lại nó.

Tiến sĩ William Hirzy, phó giám đốc của công đoàn, tuyên bố rằng fluor (chất được thêm vào nguồn nước đô thị) là một chất thải nguy hại mà có các bằng chứng rõ ràng là gây ra các tác dụng nguy hại cho sức khỏe và, trái với nhận thức của công chúng, hầu như không có bằng chứng về các lợi ích nào có ý nghĩa"(Mullenix 1998). Dù fluor độc hại gấp 50 lần chất sulfur dioxide (SO2), nó vẫn không được kiểm soát như một chất gây ô nhiễm không khí bởi các luật bảo vệ môi trường của Mỹ.

Kể từ khi hàng ngàn tấn chất thải fluor công nghiệp được đổ vào nguồn nước uống trên khắp Bắc Mỹ, được cho là để khuyến khích nụ cười lấp lánh con em chúng ta, ngành công nghiệp lớn của Mỹ ngày càng có nhiều cơ hội đổ chất thải fluor vào môi trường bất cứ khi nào và bao nhiêu tùy ý, tuyệt đối không hề có yêu cầu nào về đo lượng chất thải và sẽ không phải chịu trách nhiệm trước sự nhiễm độc về người, động vật và thực vật.

Tháng 08/2003, Cơ quan Bảo vệ Môi sinh đã yêu cầu Hội đồng nghiên cứu quốc gia, bộ phận nghiên cứu thuộc Viện hàn lâm khoa học (NAS), đánh giá lại các tiêu chuẩn an toàn của nước chưa fluor bằng cách xem lại các tài liệu khoa học gần đây, bởi vì việc xem xét cuối cùng trong năm 1993 đã có những khoảng trống lớn trong nghiên cứu. "Không phải Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA), cũng không phải Viện Quốc gia Nghiên cứu Nha khoa (NIDR) hay Học viện Nhi khoa Nha khoa Mỹ có bất kỳ bằng chứng nào về độ an toàn hoặc hiệu quả của fluor "(Sterling 1993).
Toothpast label warning
Cảnh báo: Để ngoài tầm với của trẻ em dưới 6 tuổi. Nếu bạn lỡ nuốt nhiều hơn lượng dùng để đánh răng, gọi bác sĩ hoặc Trung tâm Kiểm soát Độc chất ngay lập tức.
Học viện Quốc tế về Dược phẩm miệng và Độc chất học đã phân loại fluor như một loại thuốc không được chấp nhận vì nó có độc tính cao và Chương trình Độc học Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ nhận thấy fluor là một "chất gây ung thư không rõ ràng" (Maurer 1990). Hiện tại, chính phủ Mỹ vẫn tiếp tục giới thiệu các chương trình về fluor trên khắp cả nước, bao gồm cả Đạo luật Nước được thông qua vào tháng 11/2003, điều đó giúp cho các công ty nước không phải đối mặt với các phiên điều trần dân sự hay hình sự về hậu quả của việc cung cấp fluor cho các nguồn nước công cộng.

Trong một xã hội mà các sản phẩm có chứa amiăng, chì, beryllium và nhiều chất gây ung thư khác bị thu hồi khỏi thị trường, thật ngạc nhiên là fluor được chấp nhận triệt để và mù quáng. Thật vô lý là chúng ta đã chi trả cho nền công nghiệp hóa chất để xử lý chất thải độc hại của họ bằng cách thêm vào nguồn cung cấp nước của chúng ta.

Che giấu công chúng về các mối nguy hại trong sự ô nhiễm fluor là một công việc theo kiểu tư bản của các thảm họa khủng khiếp đã từng xảy ra bởi vì những lời hứa tốt đẹp đầy quyền lực đang thao túng dư luận để bảo vệ lợi ích tài chính cá nhân.

"Những người thực hiện các cơ chế vô hình này của xã hội tạo thành một chính phủ vô hình chính là lực lượng thống trị thực sự của nước ta...tâm trí chúng ta được đúc, thị hiếu của chúng ta được hình thành, ý tưởng của chúng ta được gợi mở, phần lớn bởi những người mà chúng ta chưa từng nghe biết đến" (Bernays 1991).

Dịch bởi Đặng Kim Ngân