fake news
Công cụ tâm lý chiến trong Dự án Mockingbird hiện đại
"Dự án Mockingbird" (Chim nhại) - được thai nghén từ cuối thập niên 40 thế kỷ trước - là chiến dịch bí mật của Cục Tình báo trung ương Mỹ được thành lập để thâm nhập và kiểm soát báo chí nói riêng và giới truyền thông Mỹ nói chung trong suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh. Trong cuốn sách "Mockingbird: sự phá hoại tự do báo chí", tác giả Alex Constantine ước tính có khoảng 300 nhân viên CIA tham gia vào "các nỗ lực tuyên truyền" của cơ quan tình báo.

Tên gọi "Dự án Mockingbird" được tiết lộ lần đầu tiên trong cuốn sách "Katharine vĩ đại: Katharine Graham và Washington Post" (xuất bản năm 1979) của tác giả Deborah Davis. Năm 1953, mạng lưới điệp viên phá hoại giới truyền thông Mỹ bắt đầu nằm dưới sự giám sát trực tiếp của Giám đốc CIA lúc đó là Allen Dulles.

Dự án Mockingbird cũng được sử dụng để bí mật lật đổ chính quyền dân chủ Iran năm 1953 (Chiến dịch Ajax) và kiểm soát báo chí trong suốt sự kiện Vịnh Con lợn. Phân tích các tài liệu CIA, các chuyên gia có thể xác định được danh tính của hơn 50 nhà báo Mỹ được CIA thuê dụng trực tiếp.

Năm 1955, Tổng thống Eisenhower cho thành lập Ủy ban 5412 để giám sát các hoạt động bí mật của CIA nhưng Giám đốc Allen Dulles khéo léo từ chối cung cấp thông tin về các chiến dịch mật của CIA cho ủy ban này.

Sự ra đời của Dự án "Chim nhại"

Năm 1948, điệp viên CIA Frank Wisner được chỉ định làm Giám đốc Cơ quan Các dự án đặc biệt (OSP) và về sau được đổi tên thành Cơ quan Hợp tác chính sách (OPC), được coi là một nhánh bí mật của CIA. Đây cũng là năm mà nước Mỹ bắt đầu thực thi ý tưởng của "Kế hoạch Marshall" giúp châu Âu bị kiệt quệ sau Thế chiến II nhanh chóng phục hồi kinh tế nhưng CIA cảm thấy như thế vẫn chưa đủ cho nên OPC được dựng lên dẫn đến sự ra đời của Dự án Mockingbird nhằm tuyên truyền quảng bá quan điểm của CIA trong môi trường truyền thông.

Trong cuốn sách "Chính phủ vô hình" (xuất bản năm 1964), hai tác giả David Wise và Thomas Ross cho biết Wisner là người trực tiếp tạo ra "chiến dịch tuyên truyền và cuộc chiến tranh kinh tế" cùng với các hành động phá hoại, lật đổ chống các quốc gia thù địch bằng cách trợ giúp các nhóm kháng chiến bí mật.

Vào cuối năm 1948, Frank Wisner thành lập "Dự án Mockingbird" với mục đích kiểm soát và gây ảnh hưởng đến giới truyền thông nước Mỹ. Lúc đó, Wisner thuê dụng Philip Graham - Giám đốc Điều hành tờ Washington Post - để giúp thực hiện dự án này trong lĩnh vực báo chí và người này bắt đầu tuyển mộ các nhà báo khác như là: William Paley (Hãng truyền hình CBS), C.D. Jackson (tạp chí Fortune), Henry Luce (báo Time) và Arthur Hays Sulzberger (tạp chí New York Times).

Graham được cho là đã tự sát bằng súng vào năm 1963. Đầu thập niên 50, Frank Wisner đã có ảnh hưởng lớn đến nhiều nhà báo có tiếng tăm của ít nhất 22 tổ chức báo chí bao gồm New York Times, Time, Life, Newsweek, CBS v.v...

Một trong những nhà báo quan trọng nhất chịu sự kiểm soát của Dự án Mockingbird là Joseph Alsop, người có các bài viết được xuất bản trong hơn 300 tờ báo khác nhau. Frank Wisner cũng tác động đến các bài báo đưa tin về một số sự kiện quan trọng. Ví dụ, các nỗ lực của CIA nhằm lật đổ chính quyền Iran và Guatemala.

Thomas Braden, lãnh đạo IOD (Phân ban về các tổ chức quốc tế) của CIA cũng đóng vai trò quan trọng trong Dự án Mockingbird. CIA cũng thành lập "các tổ chức (báo chí) bình phong" quốc tế không công khai dính líu đến để tuyên truyền. Một ví dụ là tờ Rome Daily American do CIA sở hữu trong suốt 30 năm.

Chiến dịch tuyên truyền được CIA sử dụng tiếp tục với nhịp độ không hề suy giảm cho đến năm 1973, khi nó bị tiết lộ lập tức gây phản ứng dữ dội trong người dân Mỹ. Lúc đó, CIA đã cắt đứt sự dính líu đến hơn 100 nhà báo.

Người ta không biết chắc chắn Dự án Mockingbird kéo dài trong thời gian bao lâu, hay liệu nó có còn tồn tại đến ngày nay dưới một cái tên khác hay không. Nhưng vào năm 1975, cuộc điều tra của Ủy ban Churche (đặt theo tên Thượng nghị sĩ Mỹ Franck Churche) bắt đầu tiết lộ nhiều điều về 25 năm đầu tiên của dự án này. Trong giai đoạn 25 năm này, có hơn 400 nhà báo Mỹ bí mật hợp tác với CIA, và trong đó có một số nhà báo còn được trao giải thưởng báo chí danh giá cao quý.

Năm 1963, Giám đốc CIA lúc đó là John McCone phát hiện Nhà xuất bản Random House có ý định xuất bản cuốn sách "Chính phủ vô hình" của hai tác giả David Wise và Thomas Ross. McCone nhận định các tác giả muốn tiết lộ vai trò của CIA trong nỗ lực lật đổ chính quyền của Mohammad Mossadegh ở Iran (năm 1953), Jacobo Arbenz ở Guatemala (năm 1954) cũng như chính quyền của Tổng thống Sukarno ở Indonesia và chiến dịch "Vịnh Con lợn". John McCone cho mời Wise và Ross để yêu cầu họ loại bỏ nhiều phần trong cuốn sách. Nhưng, hai tác giả đã thẳng thừng từ chối yêu cầu của McCone và Random House quyết định xuất bản cuốn sách một cách đầy đủ.

Tức giận, CIA dự kiến sẽ mua hết toàn bộ số bản in "Chính phủ vô hình" ngay khi sách được phát hành nhưng ý đồ này không thực hiện được khi Random House nhấn mạnh sẽ tiếp tục tái bản cuốn sách nếu cơ quan tình báo dám làm điều đó! Cuối cùng "Chính phủ vô hình" ra mắt bạn đọc vào năm 1964 vạch trần bộ mặt thật của tình báo Mỹ và các cỗ máy gián điệp của nó.

Cuốn sách của Wise - Ross điểm danh "Chính phủ vô hình" bao gồm nhiều tổ chức và cá nhân, kể cả tình báo và Bộ Quốc phòng, cũng như các binh chủng quân đội Mỹ. Song cuốn sách nhấn mạnh tổ chức quan trọng nhất vẫn là CIA. John McCone cũng có ý định ngăn cản Đài NBC phát sóng một bộ phim tài liệu về CIA nhưng đã thất bại.

Cuối năm 1966, CIA tiếp tục phát hiện ấn bản cánh tả Remparts có ý định đăng tải bài báo về việc CIA bí mật tài trợ cho "Hội sinh viên quốc gia" cũng như các tổ chức chống Cộng sản ở châu Âu, châu Á và Mỹ Latinh nên đã triển khai chiến dịch ngăn cản song vẫn thất bại. Tháng 3/1967, tạp chí Remparts cho đăng bài báo của tác giả Soil Stern, trong đó đề cập nhiều vấn đề liên quan đến Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ (NSA) và CIA. Bài báo cũng cho biết, Cord Meyer là nhân vật chủ chốt trong chiến dịch chống lại tạp chí Remparts.

Vai trò của Cord Meyer trong Dự án Mockingbird cũng được phơi bày vào năm 1972, khi đó người này bị buộc tội ngăn cản sự xuất bản một cuốn sách của Alfred W. McCoy, trong đó vạch trần hoạt động buôn lậu ma túy của CIA ở Đông Nam Á. Thậm chí, cho đến tận ngày hôm nay người ta cho rằng CIA cũng có một "Dự án Mockingbird" mới để tác động đến giới truyền thông Mỹ.

Ví dụ, năm 2003 Hãng tin MSNBC đã sa thải phóng viên Phil Donahue vì tội dám chống đối cuộc chiến tranh của Mỹ ở Iraq. Phil Donahue được coi là phóng viên bình luận tin tức duy nhất thời đó dám có thái độ chống đối như thế! Hay mới đây nhất là phóng viên Amber Lyon bị CNN sa thải vì làm phóng sự về sự vi phạm nhân quyền trong sự kiện Mùa xuân Arập của Bahrain - quốc gia bù nhìn của Mỹ.

Tác động của Dự án Mockinhbird trong lĩnh vực điện ảnh

Ngoài môi trường báo chí, Frank Wisner cũng muốn gây ảnh hưởng đến Hollywood và tuyển mộ nhiều nhân vật quan trọng làm việc cho Dự án Mockingbird, bao gồm đạo diễn và nhà sản xuất phim John Ford cùng với ông chủ của các studio như là Cecil B. DeMille (Hãng phim Paramount Pictures), Darryl Zanuck (Hãng phim Century-Fox) và Howard Hughes (hãng RKO Pictures).

Howard Hughes nổi tiếng là nhân vật chống Cộng sản trong cuộc chiến tranh Triều Tiên cũng như trong những cuộc chiến khác sau đó. Ngay bên trong các hãng phim cũng có mặt nhiều điệp viên CIA, như là Carleton Alsop làm việc trong Hãng phim Paramount.

Thậm chí, các cuộc điều tra của Ủy ban Churche còn tiết lộ Lugi G. Laraschi - một lãnh đạo của Paramount - cũng là người của CIA! Mục đích chính của Dự án Mockingbird là thâm nhập và tác động đến hoạt động sản xuất các bộ phim thương mại của Hollywood. Điển hình nhất là bộ phim "Trại động vật" dựa theo cuốn sách của Georges Orwell. Cuốn sách trở thành best-seller sau khi được xuất bản năm 1945, và đương nhiên các studio ở Hollywood nhanh chóng quan tâm đến việc chuyển thể nó thành phim điện ảnh.

Vấn đề đối với CIA là cuốn sách của tác giả Orwell tấn công cùng lúc chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản. Do đó, CIA muốn bộ phim phải giới hạn trong sự chỉ trích chủ nghĩa cộng sản và Liên Xô. Năm 1945, Frank Wisner sắp xếp việc tài trợ sản xuất bộ phim "Trại động vật" của Hollywood, nhưng lại muốn nó được thực hiện tại Anh nhằm để che giấu sự dính líu của CIA. Quy trình cản xuất bộ phim được CIA giám sát từ đầu đến cuối.

Cho đến ngày nay, người ta cũng nhìn thấy CIA đóng vai trò quan trọng như thế nào trong sản xuất các bộ phim như là "Black Hawk Down" (năm 2001) và "Zero Dark Thirty". CIA sẵn sàng cung cấp máy bay và tàu chiến hiện đại cho các ê-kíp làm phim để đổi lại hình ảnh của mình được mô tả theo hướng tốt đẹp.