Trang bìa ECHCC
© Sott.net
Lời tòa soạn: Bài viết này đề cập đến một số chủ đề gây tranh cãi (đồng tính luyến ái, ấu dâm, cưỡng ép tình dục, v.v...) và nội dung của nó, cũng như một số hình ảnh minh họa, có thể gây sốc với một số người.

Nếu, bất chấp lời cảnh báo này, bạn quyết định tiếp tục đọc, hãy nhớ rằng "tiểu tiết nhiều khi rất quan trọng". Vậy nên hãy đọc kỹ lưỡng và cố gắng suy nghĩ một cách thấu đáo.

Đặc biệt, đừng quên rằng trong bài phân tích này, chúng tôi tập trung vào một thiểu số những cá nhân bệnh hoạn đã thâm nhập vào cộng đồng đồng tính. Vậy nên đây không phải là một bài công kích người đồng tính nói chung, mà là nhằm vạch trần cái thiểu số nhỏ đang giả bộ đấu tranh cho quyền lợi của người đồng tính, nhưng thực ra lại lợi dụng cộng đồng đồng tính vào những mục đích đen tối.

Bây giờ, hãy thắt dây an toàn và cùng nhảy vào!

_______________________________________________

Ý tưởng chính được phát triển trong bài viết này đến một cách khá bất ngờ khi tôi đang viết phần cuối của cuốn sách Biến đổi Trái Đất và Mối Liên hệ Con người - Vũ trụ, vừa được phát hành dưới dạng sách inKindle.

"Mối Liên hệ Con người - Vũ trụ" được giả định là một trong những cơ chế chính, nếu không muốn nói là cơ chế chủ đạo, mà thông qua đó, cộng đồng con người có thể gây ảnh hưởng, tích cực hoặc tiêu cực, lên môi trường sống của họ, kể cả những thảm họa lớn từ vũ trụ.

Trong khi cuốn sách nói trên cung cấp một bức tranh chi tiết và chính xác hơn về hiện tượng tối quan trọng này, phần cuối của bài viết này cũng mô tả vắn tắt khái niệm ấy và cho thấy nó liên kết tất cả các chủ đề có vẻ như rời rạc, không liên quan mà chúng ta sẽ đề cập dưới đây.

Conchita Wurst
Conchita Wurst, người chiến thắng Eurovision 2014
Trong phần đầu của loạt bài viết này, tôi đã thảo luận về sự hủy hoại nghệ thuật. Khi bài viết đó được ra mắt, lại một cái đinh lớn nữa được đóng vào cái quan tài của nghệ thuật, vốn đã được đóng rất chặt: hàng triệu người Châu Âu đề cử Conchita Wurst là người chiến thắng trong cuộc thi giọng hát Eurovision 2014 (xem hình bên phải).

Conchita Wurst là cách chơi chữ không đến nỗi quá tinh tế: "conchita" là từ nói tránh chỉ bộ phận sinh dục nữ ở Nam Mỹ, trong khi "wurst" là từ nói tránh chỉ bộ phận sinh dục nam trong tiếng Đức. Tôi tin rằng bạn đã hiểu ra ý nghĩa của nó. Quả là rất tinh tế.

Bạn có thể còn nhớ về bà nội của tôi và những cuộc trò chuyện mà hai bà cháu tôi thường có. Bà không chỉ thích nghe về hoàng gia và quý tộc, bà còn thích nghe nhạc nữa. Nhưng, như tôi đã đề cập lúc trước, bà gần như mù hoàn toàn. Khi bà hỏi tôi về người chiến thắng trong cuộc thi giọng hát Eurovision, tôi đã phải suy nghĩ rất lâu xem mình sẽ mô tả cái đó như thế nào.

Thế rồi, tôi nhận ra một cách buồn bã rằng những đặc điểm của cá nhân này (ngoại hình, xu hướng tình dục, giới tính, lối sống...) tách rời quá xa khỏi các trải nghiệm của bà tôi đến nỗi không có cách nào tôi có thể mô tả cho bà hiểu về ca sĩ này.

Thật đáng kinh ngạc khi nghĩ lại thế giới này từng khác biệt như thế nào chỉ chưa đầy một thế kỷ trước. Đồng tính luyến ái từng tồn tại, dĩ nhiên rồi, nhưng khi bà tôi còn là một thiếu nữ, mọi thứ đơn giản hơn nhiều. Trong hầu hết mọi trường hợp, trẻ em có một người mẹ và một người cha, đàn ông yêu phụ nữ và phụ nữ yêu đàn ông, các thành viên gia đình sống chung dưới một mái nhà. Đàn ông có nam tính và phụ nữ có nữ tính.

Tôi đoán rằng nó đã như vậy trong hàng thế kỷ, nếu không phải hàng thiên niên kỷ và không có lý do gì những nguyên tắc cơ bản và tự nhiên như vậy lại thay đổi. Vâng, đấy là cho đến những năm 1960 và cuộc "cách mạng" của thời đó. Thế rồi, gần như tất cả mọi thứ thay đổi.

Cuộc cách mạng những năm 1960

Cách mạng hiếm khi là những phong trào giải phóng tự phát thực hiện bởi quần chúng nhân dân như lịch sử chính thống vẫn mô tả. Một số cuộc cách mạng được tổ chức ngay từ đầu bởi một nhóm những cá nhân bệnh hoạn tâm lý nhằm mục đích củng cố lợi ích của chúng bằng cách sử dụng đám đông mà họ kích động đến cuồng loạn như tấm bình phong dân chủ. Một số phong trào khác bắt đầu là một cuộc nổi dậy thực sự của quần chúng, nhưng nhanh chóng bị thâm nhập bởi một trong những nhóm cá nhân kể trên và bị định hướng theo mục đích của chúng, dẫn đến những điều kiện sống còn tồi tệ hơn cho người dân nói chung, nghĩa là bao gồm cả bạn và tôi. Một ví dụ có thể thấy là cái gọi là "cuộc Cách mạng Pháp" mà tiếp theo sau nó là thứ được gọi với cái tên rất đúng, "Triều đại Khủng bố", một trong những thời kỳ đen tối nhất của lịch sử nước Pháp.

Cuộc cách mạng những năm 1960 cũng không phải ngoại lệ. Mặc dù ban đầu nó có thể có một chút tính chân thực (phong trào đòi quyền lợi cho người da đen, phong trào chống chiến tranh) và một nỗ lực thực sự bởi một số người nhằm thiết lập một xã hội tốt đẹp hơn, nhưng nó nhanh chóng bị thâm nhập và lái trệch hướng.

Việc cố ý đưa vào sử dụng một lượng ma túy khổng lồ, sự dối trá của truyền thông, sự kiểm soát ngành công nghiệp âm nhạc, sự thâm nhập vào các nhóm hoạt động, việc sử dụng bạo lực, sự gia tăng về quyền lực của những lãnh đạo hai mang của phong trào đã nhanh chóng dẫn đến những kết quả trái ngược với những gì được hướng tới ban đầu.

Cohn-Bendit
Cohn-Bendit trong một cuộc biểu tình (Paris, 1968)
Nếu có một cá nhân minh họa một cách hoàn hảo cho toàn bộ giai đoạn lịch sử này và vai trò thực hiện bởi những "lãnh đạo" hai mang, đó chính là: Daniel Cohn-Bendit. Hầu hết các độc giả người Mỹ của chúng tôi có lẽ chưa bao giờ nghe nói về cá nhân kỳ dị này, và đó là một điều đáng tiếc, bởi vì các chi tiết về "sự nghiệp" của anh ta nói lên rất nhiều điều.

Gần như chỉ sau một đêm, một sinh viên đại học tầm thường sinh ra trong một gia đình Đức gốc Ashkenazi giàu có trở thành lãnh đạo cuộc "cách mạng" tháng 5/1968 ở Pháp. Trong khi Tổng thống Pháp De Gaulle đang bị gây sức ép để từ chức và cả đất nước đang ở trên bờ vực của một cuộc nội chiến, Cohn-Bendit được giới truyền thông chính thống mời quảng bá cái nhìn méo mó về một thế giới mới của anh ta.

Anh ta tập trung vào tự do nói chung, và tự do tình dục nói riêng. Tự do tình dục không nhất thiết là một điều xấu, nhưng cách diễn giải của anh ta về chủ đề này khá là kỳ dị và không có liên quan mấy đến tự do.

Để bạn có thể hình dung về thế giới bên trong của Cohn Bendit, trong cuốn sách năm 1975 của anh ta mang tên The Great Bazaar, anh ta viết rất nhiều về mối quan tâm của mình với ấu dâm. Vài năm sau, trong khi phát biểu trên một kênh truyền hình quốc gia, trước hàng triệu người xem, anh ta mô tả chi tiết về "quan hệ" mà anh ta có với một em bé gái 5 tuổi ! Dĩ nhiên, anh ta đổ lỗi cho nạn nhân và buộc tội em bé đã chủ động, mặc dù anh ta thừa nhận một ít trách nhiệm cá nhân ở chỗ vẻ ngoài điển trai của anh ta đã khiến em bé 5 tuổi kia không thể cưỡng lại được ! Bendit đưa ra những tuyên bố ấy 40 năm trước, thế nhưng lời thú tội đồi trụy ấy của anh ta cho đến nay vẫn không hề bị coi là có vấn đề gì về pháp lý bởi nhà chức trách Pháp.

Cohn-Bendit
Cohn-Bendit khoe về hoạt động ấu dâm của hắn trên một kênh truyền hình quốc gia
Ngược lại, trong những thập kỷ sau đó, Cohn-Bendit tiếp tục ngồi ở những vị trí chính trị nổi bật: phó thị trưởng Frankfurt, người sáng lập và chủ tịch một đảng chính trị Châu Âu, thành viên quốc hội Châu Âu v.v...

Khi mà hệ thống cai trị trao những vị trí chính trị chủ chốt như vậy cho một cá nhân, bạn nhận ra cá nhân ấy thực sự hoạt động "chống lại hệ thống" đến mức nào.

Trong nhiều năm, Cohn Bendit là lãnh đạo Đảng Xanh, đảng mà, nói một cách ngắn gọn, coi động vật và cây cối quan trọng hơn con người, ví dụ như họ ủng hộ việc phát triển nhiên liệu sinh học: dùng thực phẩm cho xe hơi thay vì cho con người, giảm mạnh quỹ đất đai dành cho nông nghiệp trong khi hàng tỷ người đang bị đói.

Điều thú vị là, Cohn Bendit, lãnh đạo phong trào "cách mạng" ở Pháp, thậm chí không phải là người Pháp mà là người Đức. Nhưng đến thời điểm này thì quốc tịch có còn thực sự quan trọng hay không? Như Gilad Atzmon mô tả trong cuốn sách The Wandering Who? (Người lang bạt nào ?) của ông, người Do Thái "lang bạt" không có quốc tịch. Không giống như tuyệt đại đa số những người Do Thái hòa nhập hoàn toàn vào xã hội nơi họ sinh sống, những kẻ "lang bạt" dùng các quốc gia như những khách sạn, và chỉ phục vụ cho lợi ích và tâm trí méo mó của một cộng đồng "tinh hoa".

Kể từ cuộc "cách mạng" những năm 1960, nhân danh tự do, cải cách và tiến bộ, nền tảng nền văn minh của chúng ta đang dần bị phá hoại. thay vì hoạt động vì hòa bình và chống phân biệt chủng tộc, một trong những chủ đề chính của sự chuyển đổi đang diễn ra này là phong trào quyền cho người đồng tính.

Phong trào quyền cho người đồng tính

Ban đầu, nó nhằm mục đích ngăn chặn sự kỳ thị người đồng tính. Đó có thể được coi là một mục đích chính đáng bởi vì, vào thời điểm đó, đồng tính luyến ái bị đa số coi là bất bình thường. Đồng tính luyến ái dĩ nhiên không phải là bất bình thường mà là một phần bình thường của đường cong phân phối định hướng tình dục con người, cũng giống như một người rất thấp hay một người rất cao là một phần bình thường của đường cong phân phối chiều cao con người. Nhưng đồng tính luyến ái không phải là điều xảy ra với đa số. Tuy nhiên, dù thế nào đi nữa, phong trào này (loại bỏ kỳ thị) đã sửa đổi một số khiếm khuyết trong hệ thống, và từng bước một, đồng tính luyến ái được công khai, trở nên được chấp nhận, và rồi nhiều luật đã được đưa ra đem lại những quyền bình đẳng cho người đồng tính. Hôn nhân đồng tính và các biện pháp chống kỳ thị đã được áp dụng ở ngày càng nhiều quốc gia. Như tôi thấy, đó là những điều tốt.

Có thể nói rằng, trong một vài thập kỷ, đồng tính luyến ái đã trở thành một phần được chấp nhận và đồng nhất của xã hội. Với sự bình đẳng về luật pháp và xã hội đã đạt được, ai đó có thể nghĩ rằng phong trào quyền cho người đồng tính không còn lý do gì để tồn tại, và sẽ chìm đi một cách tự nhiên. Nhưng đó không phải là điều đã xảy ra.

Có vẻ như với những kẻ thâm nhập vào và chiếm quyền kiểm soát phong trào này, bình đẳng chưa bao giờ là mục đích thật sự của chúng, mà chỉ là cái cớ để thu hút phần lớn những người đồng tính đến một mục đích rất khác. Giống như những cộng đồng thiểu số khác (người ăn chay, Do Thái, Di-gan, v.v...), bản sắc của những nhóm ấy được định hình bởi sự khác biệt giữa họ và những người bình thường. Mục đích thực sự của những kẻ nắm quyền kiểm soát phong trào là phóng đại sự khác biệt đó, khiến các thành viên coi sự khác biệt ấy như dấu hiệu của sự vượt trội, và dùng nó để thao túng phần còn lại của cộng đồng. Nghĩa là mục đích tồn tại đối với các lãnh đạo của phong trào quyền cho người đồng tính là vĩnh viễn duy trì sự khác biệt, và cái ý tưởng "chìm đi một cách tự nhiên" là hoàn toàn không thể chấp nhận được đối với họ.

Gay pride Athens 2012
Diễu hành Kiêu hãnh Đồng tính tại Athens (2012)
Do vậy, trong những năm tiếp theo, một loại đồng tính luyến ái phô trương được quảng bá rầm rộ trong các sự kiện như diễu hành Kiêu hãnh Đồng tính (lưu ý là nó không còn là về "bình đẳng" nữa mà là về "sự kiêu hãnh") để đảm bảo rằng đồng tính luyến ái giành được rất nhiều sự chú ý trong mắt những người bình thường và xã hội nói chung.

Ngày càng nhiều những người định hướng quan điểm cho phong trào LGBT (đồng tính nữ, đồng tính nam, lưỡng tính, chuyển giới) trở thành lãnh đạo trong những lĩnh vực có nhiều ảnh hưởng (ca sĩ, nghệ sĩ, chính trị gia, nhà báo, vận động viên, triệu phú, tỷ phú, v.v...)

Và dĩ nhiên, giới truyền thông chính thống làm việc ngày đêm (thông qua âm nhạc, điện ảnh, chương trình trò chuyện, quảng cáo, v.v...) để thể hiện loại đồng tính luyến ái phô trương này một cách cực kỳ ưu ái.

Nỗ lực này thành công đến mức chỉ trong vài thập kỷ, các giá trị truyền thống gần như hoàn toàn đảo ngược. Ngày nay, ít nhất là trong một số nhóm người, đặc biệt là trong giới trẻ hay những người trung lưu thành đạt ở thành thị, đồng tính luyến ái trở thành mốt, thành bằng chứng về cách nhìn cởi mở và dấu hiệu của sự tiến bộ, trong khi định hướng tình dục dị tính ngày càng bị coi là lỗi thời, bảo thủ, thụ động và nhàm chán.

Lưu ý một điểm rất quan trọng ở đây: phong trào quyền cho người đồng tính được bắt đầu bởi một thiểu số rất nhỏ những người đồng tính tự cho là nhân danh toàn bộ cộng đồng. Nhưng đó là một sự chiếm đoạt danh nghĩa hoàn toàn. Tuyệt đại đa số người đồng tính sống một cuộc sống bình thường, họ hoàn toàn hòa nhập trong xã hội và định hướng tình dục của họ là một vấn đề riêng tư. Hầu hết người đồng tính chưa bao giờ là nhà hoạt động xã hội. Họ là những người bình thường, phải không nào?

Thêm vào đó, hầu hết người đồng tính không quan tâm đến hôn nhân và càng ít quan tâm hơn đến nhận con nuôi bởi vì các mối quan hệ đồng tính, về mặt thống kê mà nói, thường là ngắn ngủi. Họ chỉ muốn sự riêng tư và tự do để sống cuộc sống riêng của họ mà không phải sợ bị can thiệp hay quan tâm quá mức. Điều này hoàn toàn trái ngược với những gì các nhà hoạt động LGBT hướng tới: nổi tiếng trên truyền thông, kích động quần chúng, hoạt động chính trị và có vị trí đặc biệt.

Cũng giống như cộng đồng người Do Thái bị thao túng bởi một thiểu số những kẻ theo chủ nghĩa Zion, những kẻ phóng đại quá mức mối đe dọa kỳ thị người Do Thái và khai thác tâm lý nạn nhân trong cộng đồng (chủ yếu từ cuộc thảm sát người Do Thái trong Thế Chiến II), những người đồng tính bị thao túng bởi một thiểu số những kẻ ấu dâm, những kẻ tự cho mình là đại diện cho cộng đồng người đồng tính và khai thác mối đe dọa kỳ thị người đồng tính cùng cái nhãn mác nạn nhân của họ (từ bệnh AIDS chẳng hạn).

Một ví dụ tốt của những gì kể trên là Larry Brinkin, thành viên Hội Cựu Chiến binh Đồng tính và cựu thành viên Ủy ban Nhân quyền San Francisco, kẻ vừa bị bắt và bị kết tội sản xuất phim ảnh khiêu dâm trẻ em.

Điều này đưa chúng ta đến điểm chính: Hôn nhân đồng tính không phải là mục đích mà là phương tiện. Thật vậy, một khi hôn nhân đồng tính được hợp pháp hóa, không ai có thể từ chối bước tiếp theo, hợp pháp hóa việc nhận con nuôi. Luật đó đã được ban hành ở 14 quốc gia.

Quá trình nhận con nuôi được đánh giá phần nhiều dựa trên tiền bạc chứ không phải đạo đức. Những người đồng tính, trung bình mà nói, có thu nhập cao hơn người bình thường do tình trạng "phân biệt đối xử tích cực" ở tất cả mọi lĩnh vực xã hội, bao gồm cả giới kinh doanh. Do vậy, có thể nói rằng ngày nay người đồng tính có nhiều "quyền" nhận con nuôi hơn các cặp vợ chồng bình thường.

Cộng đồng người đồng tính đã bị sử dụng như một con ngựa thành Trojan, bởi một thiểu số những kẻ ấu dâm. Chúng vận động ban hành luật cho phép nhận con nuôi dưới lớp vỏ bình đẳng để thực hiện kế hoạch sở hữu trẻ em của chúng. Kết quả là ngày nay, hai kẻ ấu dâm có thể "kết hôn" và rồi mua trẻ em một cách hoàn toàn hợp pháp. Điều này không chỉ có thể về mặt lý thuyết mà đã được xác nhận bởi nhiều vụ án trong đời thực trong đó các cặp ấu dâm mua và lạm dụng tình dục những đứa trẻ bị chúng nhận làm con nuôi:
Haratz & Wirtz
Cặp kết hôn đồng tính Haratz & Wirtz. Lệnh bắt chúng ghi rõ chúng không chỉ lạm dụng thể xác và tình dục trẻ em, mà còn buộc những đứa trẻ ấy ngủ trong cũi.
Dưới đây là một vài ví dụ từ hàng chục vụ đã được ghi nhận:
- Cặp kết hôn đồng tính lạm dụng tình dục trong hàng năm trời em bé trai người Nga bị chúng nhận làm con nuôi [link]
- "Họ thay phiên hiếp dâm tôi": Tiết lộ vụ lạm dụng tình dục trẻ em trong đó cặp kết hôn đồng tính bị buộc tội lạm dụng tình dục 5 trong số 9 đứa con nuôi của chúng [link]
- Cặp kết hôn đồng tính ở Connecticut bị buộc tội hiếp dâm những đứa con nuôi của chúng sẽ phải ra trước tòa [link]

Regina Louf
Regina Louf sống qua được địa ngục trần gian và có đủ dũng cảm để làm chứng trước tòa.
Dĩ nhiên, các cặp vợ chồng dị tính cũng có thể là những kẻ ấu dâm như ví dụ cặp Dutroux cho thấy. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy so với nam giới, phụ nữ ít có xu hướng lạm dụng tình dục trẻ em hơn nhiều, trong khi thường xuyên là nạn nhân của lạm dụng tình dục. Sự khác nhau này có thể đơn giản là do chứng thái nhân cách được cho là phổ biến hơn ở nam giới.

Chúng ta đừng nên bị đánh lừa bởi sự tuyên truyền phổ biến mô tả ấu dâm như một thứ "tình yêu bị cấm đoán". Đối với những kẻ thái nhân cách, đồng tính luyến ái hay ấu dâm không có liên quan chút nào đến tình yêu, nó thậm chí không phải là về tình dục nữa. Đối với những kẻ thái nhân cách ấu dâm, mục đích duy nhất là quyền lực thống trị và kiểm soát, và tạo ra sự thống khổ lớn nhất cho những nạn nhất ngây thơ và yếu đuối nhất: những đứa trẻ.

Điểm này được mô tả rất rõ ràng bởi Regina Louf, một trong số ít những nạn nhân còn sống sót thoát khỏi mạng lưới ấu dâm ở Bỉ bao gồm nhiều thẩm phán, nhà kinh doanh, chính trị gia hàng đầu và cảnh sát. Chúng đã thí tốt Marc Dutroux, một trong những "nguồn cung cấp trẻ em" của chúng, để tránh khỏi cảnh bị người dân xé xác ra do cơn phẫn nỗ về những gì được phơi bày.

Louf thuật lại số lượng nhiều không kể xiết những cảnh tra tấn, giết người tế thần, tế trẻ em, săn giết trẻ em. Những lời làm chứng trước tòa của cô đã được xác nhận bởi một số người làm chứng và các bằng chứng vật chất khác.
Marc Dutroux protest
Trong Tháng Ba Trắng, 600.000 người Bỉ biểu tình phản đối mạng lưới ấu dâm Dutroux.
Nếu việc gán vai trò và quyền lực lớn như vậy cho các mạng lưới và những kẻ ấu dâm nghe có vẻ vô lý, hãy xem xét những con số sau đây: theo một số nghiên cứu thực hiện ở Hoa Kỳ, tỷ lệ lạm dụng tình dục trẻ em là khoảng 54%. Ở Ấn Độ, một nghiên cứu năm 2007 về lạm dụng trẻ em thực hiện bởi Bộ Phát triển Phụ nữ và Trẻ em cho thấy hơn 53% đã từng là nạn nhân của lạm dụng tình dục.

Hãy nhớ rằng những con số đáng kinh ngạc ấy thậm chí còn chưa tính đến xu hướng các nạn nhân và gia đình thường che giấu sự việc do sợ hãi, chối bỏ, hổ thẹn, trầm cảm, v.v... Có thể rút ra rằng hơn nửa dân số thế giới từng bị lạm dụng tình dục khi còn nhỏ.

Michelle Martin
Michelle Martin, được tự do từ năm 2012
Bạn có thể tưởng tượng tổn thất tinh thần gây ra đối với cả xã hội từ một đại dịch như vậy không ? Lẽ ra nó phải là một vụ xì-căng-đang quốc gia. Thế nhưng bất chấp mức độ ghê gớm của thảm họa này đối với cả xã hội và mỗi cá nhân, chúng ta hầu như không nghe ai nói về nó.

Trong khi giới truyền thông mải quan tâm đến những trò nhố nhăng mới nhất của Justin Bieber, hệ thống luật pháp mải tập trung vào những kẻ bán tép thuốc phiện nhỏ lẻ trên đường phố, các nhà khoa học mải nghiên cứu lượng CO2 trong rắm bò và cảnh sát mải theo dõi máy bắn tốc độ. Làm sao chúng ta có thể giải thích tình trạng tâm thần phân liệt tập thể này? Phải chăng sự thờ ơ có hệ thống từ trên đỉnh trở xuống là minh chứng rõ ràng nhất về sức mạnh của những kẻ tội phạm?

Nếu bạn vẫn còn nghi ngờ về sức mạnh của các mạng lưới ấu dâm, dưới đây là hai mẩu thông tin để bạn xem xét.

Năm 2012, Michelle Martin, vợ của Marc Dutroux, kẻ đã bị kết án cùng với chồng về các tội bắt cóc, đánh thuốc mê, bắt giam, tra tấn, hãm hiếp, bỏ đói và giết hại bảy cô gái trẻ được thả khỏi tù khi mới hết nửa án tù của mụ.

Cũng trong vụ án Dutroux đó, 30 nhân chứng đã chết.

Hầu hết những cái chết đó xảy ra ngay trước khi nạn nhân làm chứng trước tòa. Và không cần phải nói, hầu hết những cái chết đó xảy ra trong những hoàn cảnh rất đáng ngờ, nhưng không có một vụ nào được điều tra và truy tố.

Lý thuyết Giới tính

Phong trào quyền cho người đồng tính mô tả ở trên chỉ là một trong những công cụ được dùng để thay đổi nền tảng cơ bản của xã hội loài người. Lý thuyết Giới tính là một công cụ khác. Lý thuyết này được tạo ra vào những năm 1920 bởi John Money, một bác sĩ trị liệu tình dục người New Zealand, người từng công khai và liên tục phát biểu ủng hộ đồng tính luyến ái và ấu dâm. (Lưu ý cái cách mà sự ủng hộ cho cái đầu được liên kết liền với cái thứ hai. Đây là manh mối cho thấy người đó không phải là một người "đồng tính bình thường" thực sự.)

Money nổi tiếng vì đã "chữa trị" cho một cặp sinh đôi, buộc một trong hai người thay đổi giới tính, chụp ảnh cặp sinh đôi này mô phỏng quan hệ tình dục, khuyến khích họ thực hiện "trò chơi tình dục" với nhau, và lạm dụng tình dục cả hai người. Cả hai người cuối cùng đều tự tử.

Ngày nay, người ủng hộ nhiệt tình nhất cho Lý thuyết Giới tính là một người đồng tính nữ tên là Judith Butler. Butler cũng đồng thời là Do Thái.

Để hình dung hệ tư tưởng của Butler được hỗ trợ mạnh mẽ bởi tầng lớp "tinh hoa" của thế giới này đến mức nào, bạn có thể xem danh sách rất dài các giải thưởng và danh hiệu và số lượng các trường đại học danh tiếng từng vinh danh bà ta (Princeton, Columbia, Harvard, chỉ kể vài cái tên nổi tiếng nhất).

Lý thuyết Giới tính được dựa trên định đề (sai lầm) rằng, ở lứa tuổi rất sớm, trẻ em đã có khả năng tình dục rất mạnh và nó nên được khuyến khích. Đồng thời, lý thuyết này cũng cho rằng định hướng tình dục và giới tính hoàn toàn hình thành từ lựa chọn cá nhân và điều kiện xã hội xung quanh.

Bạn có thể ngạc nhiên khi biết rằng Lý thuyết Giới tính đã được dạy và áp dụng ở rất nhiều trường học trên khắp thế giới. Bạn cũng có thể tự hỏi tại sao giới truyền thông (cả chính thống lẫn không chính thống) lại ít nói về chủ đề này đến vậy.

Ở vùng nói tiếng Đức của Thụy Sĩ, từ lứa tuổi mẫu giáo, trẻ em được dạy về thủ dâm và được khuyến khích thực hành nó. Trẻ em đi học được phát một "hộp đồ dùng học tập" trong đó có đồ chơi nhồi bông mang hình dương vật, âm đạo cùng các dương vật giả bằng gỗ và chúng được khuyến khích chơi với những thứ đó.
Sex toys for children in Switzerland
Hộp "đồ dùng học tập" phân phát cho trẻ em mẫu giáo và cấp 1 ở Thụy Sĩ
Chúng cũng được phát một cuốn truyện tranh khiêu dâm với tựa đề nhẹ nhàng: "Lisa và Jan". Cuốn truyện tranh này có những cảnh rất "gợi mở": một bé gái thủ dâm trong khi một đứa khác ngồi xem, một bé trai thủ dâm dưới chăn trong khi tự quan sát bộ phận sinh dục của mình bằng đèn pin, một đứa trẻ nhìn trộm bố mẹ làm tình.

Excerpt from the 'Lisa & Jan' cartoon: a young boy masturbates another one.
Trích từ truyện tranh "Lisa & Jan": Một đứa trẻ thủ dâm cho một đứa trẻ khác
Các học sinh 6 tuổi cũng được dạy về tình dục dị tính và tình dục đồng tính. Dĩ nhiên, chúng được dạy rằng cả hai định hướng tình dục đều như nhau (nhớ rằng tự do là trên hết, định hướng tình dục chỉ là lựa chọn cá nhân, bất chấp thực tế rằng những người đấu tranh vì quyền cho người đồng tính vẫn tuyên bố trong nhiều năm trời rằng đồng tính luyến ái là một biến thể di truyền bình thường !)

Ở Đức, nhiều phụ huynh từ chối (một cách rất hợp lý) để cho những đứa con nhỏ của họ tiếp xúc với những tài liệu ấy, và rút con họ khỏi các lớp giáo dục giới tính. Kết quả là nhà chức trách Đức bỏ tù 10 cặp phụ huynh trong 40 ngày. Bạn thấy đấy, trẻ em cần phải được tự do quan hệ đồng tính từ lứa tuổi càng sớm càng tốt, nếu chúng chọn như vậy, và chúng cần phải được dạy để chọn như vậy. Mặt khác, phụ huynh không có quyền rút con cái họ khỏi các khóa học tẩy não, và chính quyền sẽ thực thi chính sách này, bao gồm cả việc bỏ tù những phụ huynh muốn chống lại.

Ở Thụy Điểu, trẻ em từ 13 đến 17 tuổi bắt buộc phải xem một bộ phim hoạt hình khiêu dâm trong đó những từ như "lồn" (cunt) và "buồi" (dick) được dùng thoải mái.
Censored excerpt from the animated cartoon forced on Swedish schoolkids. Notice the depressed face of the girl and the politically correct interracial couple.
Một cảnh (đã được cắt bớt phần nhạy cảm) trong bộ phim hoạt hình mà học sinh Thụy Điển buộc phải xem. Lưu ý nét mặt đau khổ của cô gái và màu da khác nhau của hai người để đảm bảo không có chút kỳ thị chủng tộc nào.
Mục đích chính thức của bộ phim hoạt hình này là để giảm bớt sự lan truyền của bệnh lây qua đường tình dục, nhưng thống kê cho thấy bệnh qua lây đường tình dục trên thực tế gia tăng từ khi bộ phim này được sử dụng.

Ở Pháp, bộ trưởng giáo dục đã công bố một bản danh sách các khuyến nghị với nhan đề ABC của sự bình đẳng (lại khẩu hiệu bình đẳng và chống kỳ thị) dựa trên Lý thuyết Giới tính bao gồm:

- Giáo dục tình dục rộng rãi cho tất cả học sinh từ 6 tuổi
- Xem bộ phim Tomboy, qua đó trẻ em 6 đến 8 tuổi được tiếp thu suy nghĩ của một đứa bé gái đóng giả làm con trai.
- Sử dụng các cuốn sách "không giới tính" như Papa wears a dress (Bố mặc váy).

Trong khi đó, các thí nghiệm làm biến dạng giới tính được áp dụng bao gồm:

- Một bộ phim hoạt hình không mấy tinh tế mô tả hai con cá đực (Felix và Leon) yêu nhau. Bộ phim được chiếu cho học sinh 10 tuổi.

- Các lớp mẫu giáo "trung tính" nơi mà các bé trai phải chơi búp bê và bé gái chơi ô tô đồ chơi.
Gender-neutral kindergarten
Lớp mẫu giáo trung tính: một bé trai chơi với búp bê
Trẻ em Pháp lớn tuổi hơn không cần phải lo lắng, những người thực thi Lý thuyết Giới tính không quên chúng. Ví dụ, ngày 16/5/2014 được tuyên bố là ngày mặc váy trong đó học sinh từ 10 đến 17 tuổi được khuyến khích mặc váy ra đường để chứng tỏ cách suy nghĩ cởi mở của họ.

Nantes, France. High school students participating in 'skirt day'.
Nantes, Pháp: Học sinh trung học tham gia "ngày mặc váy".
Ở Ontario, Canada, chủ một cửa hàng đồ chơi tình dục được mời giải thích cách dùng và khuyến khích việc sử dụng dương vật giả cho học sinh.

Ở Anh, các lớp học về tình dục được bắt đầu từ 5 tuổi. Phụ huynh không được thông báo chính thức về nội dung của những "lớp học" này. Cuối cùng họ biết từ con cái họ rằng các bài học bao gồm những chủ đề như "quan hệ qua hậu môn" và "quan hệ bằng miệng".

Lý thuyết Giới tính không chỉ được áp dụng ở cấp quốc gia (ở trên mới chỉ liệt kê một vài ví dụ) mà nó còn là chủ đề chính của một báo cáo nhan đề Tiêu chuẩn cho Giáo dục về Tình dục ở Châu Âu (Standards for Sexuality Education in Europe) xuất bản năm 2010 bởi Tổ Chức Y Tế Thế Giới.

Trong bản báo cáo này, chúng ta có thể thấy những khuyến nghị rõ ràng về cách con cái chúng ta nên được tẩy não như thế nào. Dưới đây là vài ví dụ thú vị:

- Trước 4 tuổi, con cái chúng ta phải được học về thủ dâm. Đứa trẻ phải thể hiện "nhu cầu và mong muốn" của nó về tình dục. Khuyến nghị thực hiện điều này bằng "trò chơi bác sĩ".

- Khi chúng được 4 tuổi, những đứa trẻ được khuyến khích "khám phá những bản sắc tình dục khác nhau," và đặc biệt là "tình bạn và tình yêu đối với người cùng giới tính."

- Đến 6 tuổi, đứa trẻ phải thành thạo về "các tiêu chuẩn tình dục khác nhau", nó cũng phải được học về "phóng tinh và kinh nguyệt" và "các biện pháp phòng tránh thai."

Tương tự, Liên Hiệp Quốc tổ chức một cuộc hội thảo với nhan đề Giới tính trong nhà trường: Một vấn đề cơ bản trong giáo dục.

Tương tự như phong trào quyền cho người đồng tính, mục đích thực sự của việc áp đặt Lý thuyết Giới tính lên xã hội không có liên quan gì đến tự do hay bình đẳng. Trên thực tế, Lý thuyết Giới tính giúp bình thường hóa, và thậm chí áp đặt lên tâm trí và xã hội chúng ta cái hành vi đồi bại và hủy hoại đến tận gốc rễ là ấu dâm.

Thật vậy, dưới vỏ bọc tự do tình dục, Lý thuyết Giới tính lan truyền niềm tin sai lầm và bệnh hoạn rằng trẻ em từ nhỏ nên có hoạt động tình dục như người lớn và rằng định hướng tình dục hoàn toàn là một lựa chọn cá nhân. Gộp hai điểm ấy lại với nhau và chúng dẫn đến suy nghĩ rằng những đứa trẻ nhỏ quan hệ tình dục với một người đàn ông trưởng thành là điều hoàn toàn bình thường.

Nhưng nó hoàn toàn không bình thường, như nhiều nghiên cứu cho thấy. Ví dụ, bộ não của những kẻ ấu dâm thể hiện phản ứng bất thường khi nhìn thấy mặt những đứa trẻ:
Trong thế giới động vật, có một số cơ chế được thiết kế để ngăn những con vật trưởng thành quan hệ tình dục với những con còn nhỏ. Ví dụ, "mùi phát ra bởi những con chuột con ức chế hành vi tình dục của những con chuột đực trưởng thành," tác giả nghiên cứu chính Jorge Ponseti, một nhà nghiên cứu tình dục tại trường Đại học Christian-Albrechts University of Kiel tại Đức nói. "Nếu các nhà khoa học gây ức chế những mùi này ở chuột con thì các con chuột đực trưởng thành bắt đầu quan hệ với những con chuột con." ...

Lý do tại sao ấu dâm xảy ra ở con người vẫn còn chưa được làm rõ. Những kẻ ấu dâm có thể đã gặp vấn đề trong phát triển não bộ từ khi còn nhỏ. Ví dụ, "có sự gia tăng trong tỷ lệ chấn thương sọ não trước 12 tuổi ở những kẻ ấu dâm," Ponseti nói. (Tạp chí The Journal Biology Letters, số ngày 21/5/2014)
Rõ ràng là, không giống những người đồng tính sinh ra đã thế vì nhiều lý do khác nhau và là một phần nhỏ nhưng bình thường trong đường cong phân phối định hướng tình dục của con người, những kẻ ấu dâm là thứ bất thường - bất thường ngay cả trong thế giới động vật.

Women becoming a caricature of men and vice versa
Phụ nữ trở thành hình ảnh méo mó của nam giới và ngược lại
Bên cạnh việc bình thường hóa ấu dâm, Lý thuyết Giới tính củng cố một quá trình đã được khởi xướng từ hàng thập kỷ trước với việc xóa mờ dần bản thân khái niệm giới tính trong đó phụ nữ dần dần trở nên nam tính hóa dưới danh nghĩa chống kỳ thị và bình đẳng giới tính, trong khi nam giới dần dần trở nên nữ tính hóa do các chiến dịch tuyên truyền chống hành vi ngổ ngáo, "ủng hộ người ái nam ái nữ" và "giải phóng" khía cạnh nữ tính của đàn ông. Một quá trình tương tự xảy ra trong giới đồng tính trong đó một số người đồng tính nữ có xu hướng bắt chước một cách méo mó những đặc điểm tồi tệ nhất của nam tính (thô bạo, thô tục), trong khi một số người đồng tính nam trưng ra một phiên bản méo mó của những đặc điểm tồi tệ nhất của nữ tính (dễ bị kích động, ngồi lê đôi mách). Những đặc điểm cơ bản và tốt đẹp của nam tính như lòng dũng cảm hay trọng danh dự và những đặc điểm cơ bản và tốt đẹp nhất của nữ tính như sự dịu dàng và tính sáng tạo không hề xuất hiện trong những phiên bản bị bóp méo này.

Lý thuyết Giới tính cũng phát triển hơn nữa một xu hướng đã được bắt đầu từ nhiều năm trước bởi giới truyền thông và ngành công nghiệp thời trang, những thứ không may là đang quyết định tiêu chuẩn của cái đẹp và hình mẫu lý tưởng trong tâm trí nhiều người. Những người ủng hộ Lý thuyết Giới tính đóng vai trò lớn trong việc phổ biến và khiến công chúng chấp nhận con người đồng hóa giới tính, một sinh vật không phải đàn ông, nhưng cũng không phải phụ nữ. Suy cho cùng, một người đồng hóa giới tính là một cá thể trong đó không còn tồn tại một trong những đặc điểm chính quyết định bản sắc cá nhân và bản sắc xã hội của anh ta: giới tính, thứ được ban cho chúng ta bởi Tạo hóa.

Ngày nay, xu hướng đồng hóa giới tính không chỉ là sự tưởng tượng của một số nhà thiết kế thời trang tâm thần không ổn định hay những người ủng hộ lý thuyết giới tính thái quá, nó đã đi vào cuộc sống về mặt xã hội và pháp lý.

Xem xét trường hợp của người chuyển giới người Úc Bruce Watson. Ngày 3/4/1989, Bruce Watson được thực hiện phẫu thuật chuyển giới nam sang nữ, nhưng sau đó thấy rằng là một người phụ nữ cũng không thích thú gì.

Left, Casey Legler, a French female model. Right, Swiss male model Roc Montandon
Trái, Casey Legler, một người mẫu nữ người Pháp. Phải, Roc Montandon, một người mẫu nam người Thụy Sĩ.
Thế là Watson yêu cầu được có tư cách phi giới tính, và đạt được nó sau quyết định mang tính lịch sử của chính quyền bang New South Wales, Úc ngày 2/4/2010.

Mặc dù sau đó quyết định này bị đảo ngược (trong năm 2010), vào ngày 3/5/2014, sau 4 năm đấu tranh pháp lý, Tòa án Phúc thẩm NSW, tòa án cao nhất của Úc, chính thức xác nhận Bruce Watson thực sự không có giới tính.

Lý thuyết Giới tính giờ đây không chỉ thay đổi thành công hệ thống pháp luật, nó còn có ảnh hưởng rất lớn trong xã hội. Ví dụ, Facebook, công ty mạng xã hội khổng lồ, đề xuất một danh sách khoảng 50 thuật ngữ khác nhau mà mọi người có thể dùng để xác định giới tính của họ.

Hãy xem danh sách ấy và tôi chắc chắn bạn sẽ phải kinh ngạc với một số từ được đề xuất. Bạn cũng có thể chọn một trong số đó cho bản thân, hay thậm chí tạo ra một giới tính mới. Có sao đâu, tự do là vậy, phải không nào ?!

Tình yêu, Hôn nhân, Gia đình, và Sự sống

Cùng với phong trào quyền cho người đồng tính và sự áp dụng trên khắp thế giới của Lý thuyết Giới tính, trong những thập kỷ vừa qua còn diễn ra sự phá hoại liên tục Tình yêu, Hôn nhân, Gia đình, và thậm chí bản thân Sự sống. Khi bạn nghĩ về nó, bốn chủ đề liên quan mật thiết này tạo ra chu trình cơ bản của sự tồn tại của con người: bạn yêu, bạn kết hôn với người mình yêu, bạn có con và thành lập một gia đình.

Tình yêu:

Tình yêu, trong định nghĩa lý tưởng nhất của nó, là sự chia sẻ và kết hợp sâu sắc giữa một người đàn ông và một người phụ nữ ở mức độ thể xác, tình cảm và tâm linh. Cách nhìn nhận này đối với tình yêu là một trong (số ít) những hoa trái tốt lành của hệ tư tưởng Thiên Chúa Giáo và ví dụ của nó có thể được thấy trong những đoạn sau từ Kinh Thánh:
Bởi thế mà đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và khăng khít với vợ mình và họ sẽ nên một thân xác. (Genesis 2:24)
Bởi thế mà đàn ông sẽ bỏ cha mẹ mình, và cả hai, họ sẽ nên một thân xác. (Mark 10:7,8)
Người anh em không biết sao? Kẻ nào dan díu với điếm tức là nên một thân mình với nó ? Vì cả hai, Kinh thánh nói, sẽ nên một thân xác. (1 Corinthians 6:16)
Trước khi bạn cho rằng Sott.net đang dẫn Kinh thánh một cách mù quáng, hãy nhớ rằng Kinh thánh không phải được tự nhiên được tạo ra như vậy. Một phần đáng kể nội dung của nó đến từ các dân tộc du mục thông qua người Hy Lạp và người La Mã (Xem các cuốn sách Anthony D., The Horse, the Wheel, and Language và De Coulange F., The Ancient City and McDonald D., Does the New Testament Imitate Homer? ).

Không giống như nền văn minh hiện đại của chúng ta, các dân tộc du mục (và người Hy Lạp và La Mã ở mức độ thấp hơn) có sự hiểu biết rất tốt về "mối liên hệ Con người - Vũ trụ" (mà chúng ta sẽ thảo luận dưới đây).

Nguyên lý cổ xưa rằng tình yêu là sự kết hợp của một người đàn ông và một người phụ nữ ở mức độ cao hơn thể xác đã dần dần bị biến thành tình dục, một hành động tầm thường chỉ dựa trên khoái lạc thể xác, thỏa mãn cá nhân và không có tình yêu hay bất cứ sự kết hợp sâu sắc hơn nào.

Sự chuyển đổi này được kích hoạt bởi quá trình tình dục hóa xã hội chúng ta dưới nhiều hình thức:

The lingerie Barbie mostly sold to 8 to 12 y.o. girls
Búp bê Barbie mặc đồ lót gợi tình chủ yếu được bán cho trẻ em gái 8 đến 12 tuổi
- Sự phát triển đáng kinh hãi của ngành công nghiệp khiêu dâm và sự phổ biến các nội dung khiêu dâm. Vài thập kỷ trước đây, ngành công nghiệp khiêu dâm hầu như không tồn tại trong xã hội bình thường (mặc dù giới "tinh hoa" từ lâu đã tham gia vào các hoạt động tình dục đồi trụy, méo mó). Năm 2006, ngành công nghiệp khiêu dâm có doanh thu 13 tỷ đôla. Nội dung của nó cũng biến hóa, trở nên ngày càng cực đoan hơn. Ngày nay, 88% các cảnh trong phim khiêu dâm chứa những hành động bạo lực thể xác, và 49% các cảnh chứa bạo lực bằng lời. Cùng với nó là sự chấp nhận ngày càng tăng của những loại hình tình dục lệch lạc như khổ dâm.

- Sự tình dục hóa nội dung truyền thông (quần áo, phim ảnh, quảng cáo),

- Sự phát triển của đủ loại tình dục ngoài hôn nhân: mại dâm, trao đổi vợ chồng, hẹn hò qua mạng (33% hẹn hò qua mạng có quan hệ tình dục ở lần gặp đầu tiên), tình một đêm...

- Sự tình dục hóa trẻ em, thông qua quần áo (bao gồm cả quần lót gợi dục kích cỡ trẻ em với những từ ngữ gây kích thích trên đó), đồ chơi (như là búp bê mặc đồ lót), sự quảng bá và lăng xê các "ngôi sao" trẻ em v.v...

Sự kết hợp của các yếu tố này dẫn đến kết quả là tình trạng nghiện tình dục đã đạt đến tỷ lệ đại dịch, ảnh hưởng hơn 12 triệu người Mỹ.

Trong một số giới xã hội, một sự đảo ngược giá trị đã xảy ra. Ví dụ, trong một số giới nhà giàu Pháp, đi đến các câu lạc bộ trao đổi vợ chồng ban đêm giờ được coi là dấu ấn đẳng cấp.

Hôn nhân:

Ảnh
Từng là một sự kết hợp thiêng liêng và được tôn kính, hôn nhân là cốt lõi của gia đình truyền thống kể từ buổi bình minh của nền văn minh. Lời thề long trọng của nó là một cam kết mạnh mẽ về lòng chung thủy và sự hỗ trợ lẫn nhau lâu dài giữa một người đàn ông và một người phụ nữ.

Nhưng cùng với sự suy đồi về tâm linh, hôn nhân đã dần bị hủy hoại cả về pháp lý và xã hội với sự hợp pháp hóa của ly hôn, sự chấp nhận của việc kết hôn lại, sự tạo thành các hình thức thay thế hôn nhân như "kết hợp dân sự", sự phát triển của hôn nhân đồng tính như nói đến ở trên, và cả việc tự do sống với nhau.

Ở đây, tôi muốn nói rõ quan điểm là phụ nữ có quyền, bao gồm cả quyền rời bỏ một hôn nhân trong đó cô ta không hạnh phúc hay bị lạm dụng, và đó là điều tốt. Tôi thấy là cội nguồn của vấn đề ly hôn tràn lan hiện nay là ở chỗ trẻ em được dạy từ bé rằng sự hấp dẫn về tình dục là điều cơ bản dẫn đến hôn nhân, và bị thấm nhuần rất nhiều ảo tưởng về câu hỏi hôn nhân thực sự là gì hay nên là như thế nào. Tất cả những cái đó (và nhiều thứ khác nữa) đã dẫn chúng đến những quyết định tồi không thể tránh khỏi khi lựa chọn người bạn đời và điều đó dẫn đến nhiều cuộc ly hôn và gia đình tan vỡ hơn nữa.

Ở nhiều quốc gia Châu Âu, mặc dù chế độ đa thê đa phu chính thức là bất hợp pháp, không có luật nào ngăn cấm một người sống với nhiều hơn một người bạn đời.

Ngày nay, ly hôn đã trở nên bình thường đến nỗi một đứa trẻ với hai bố mẹ vẫn còn kết hôn với nhau có thể gây ra sự sửng sốt trong bạn bè của nó. "Bố mẹ mày không ly hôn ? Thật là kỳ lạ." Tương tự như vậy, trong một số giới xã hội, có bồ bịch không chỉ được chấp nhận mà còn là thứ đáng tự hào.

Thật vậy, ngày nay, tỷ lệ ly hôn vượt quá 50% ở nhiều nước phát triển. Điều này có nghĩa là trong bất kỳ một năm nào, nhiều người ly hôn hơn là số người kết hôn.

Có cái gì đó rất không ổn với bức tranh này, và nó thể hiện một cách rõ ràng xã hội chúng ta đã trở nên lạc lối và bệnh hoạn đến mức nào.

Gia đình

Members of a farmer family - Row River Valley, beginning of the 20th century
Các thành viên một đại gia đình nông dân - Row River Valley - vào đầu thế kỷ 20
Trong nhiều thế kỷ, truyền thống là các cá nhân dành toàn bộ hoặc phần lớn cuộc đời của họ trong một gia đình với trẻ em, cha mẹ, ông bà và, trong một số trường hợp, cả đại gia đình: cô chú, cậu mợ, anh em họ, v.v...

Các doanh nghiệp gia đình như trang trại hay xưởng thủ công là một phần quan trọng của đời sống kinh tế.

Nhưng cuộc cách mạng công nghiệp đã cho ra đời các tập đoàn khổng lồ, và họ đã hủy diệt các doanh nghiệp gia đình, tạo ra công việc ăn lương và tập trung hoạt động kinh tế trong các thành phố hay khu công nghiệp.

Các gia đình truyền thống, chủ yếu nằm ở khu vực nông thôn, buộc phải chia cắt. Trong quá trình này, các gia đình bộ tộc, thành phần cốt lõi của đời sống cộng đồng trong hầu hết lịch sử tồn tại của con người, hạt nhân cơ bản của bất kỳ nền văn hóa nào, bị phá hủy.

Mỗi thành viên gia đình bị buộc phải đi con đường của riêng mình. Ngày nay, ông bà sống những ngày cuối đời của mình trong trại dưỡng lão, người cha ly hôn làm việc ở một thành phố, người mẹ ly hôn sống ở một thị trấn khác, người con làm việc ở nước ngoài, và họ hàng chỉ gặp nhau ở đám tang. Con người đã bị tách khỏi hạt nhân gia đình, bộ tộc của họ và bị buộc phải sống một cuộc sống cô lập.

Trong quá khứ, khi sống với gia đình, mỗi cá nhân được kết nối với cội nguồn của anh ta, anh ta được tiếp xúc với các giá trị và nguyên lý đạo đức, anh ta có một đời sống xã hội tích cực, anh ta được dạy dỗ bởi những người già về truyền thống địa phương, các kỹ năng và kiến thức truyền miệng. Anh ta học hàng ngày về sự chia sẻ, chăm sóc và giúp đỡ lẫn nhau. Anh ta sống với người anh ta yêu trong gia đình của anh ta, và anh ta có thể dựa vào sự hỗ trợ vững chắc của gia đình để đối mặt với các thử thách về mặt vật chất, tài chính và tinh thần trong cuộc sống, bao gồm cả việc chăm sóc con nhỏ. Gia đình chính là cội nguồn của bản thể mỗi người, nơi mà mỗi người có thể định nghĩa con người của họ và xác định khái niệm cái tốt và cái xấu của họ.

Cuộc sống thành thị, hiện đại, cô lập xóa bỏ tất cả những thứ đó. Nó mang lại vô số những cá nhân cô đơn, trầm cảm và dễ bị tổn thương. Kết quả là tỷ lệ tự tử trên thế giới đã gia tăng 60% trong 45 năm qua. Chúng ta có nên ngạc nhiên hay không ?

Sự sống:

Ngay cả giá trị của sự sống cũng đã bị hủy hoại dần dần bởi "nền văn minh hiện đại" của chúng ta. Đầu tiên, các biện pháp tránh thai được phát triển, rồi việc phá thai được hợp pháp hóa, rồi các viên thuốc tránh thai "khẩn cấp" sáng hôm sau, ngày hôm sau, tuần sau được sử dụng rộng rãi. Dĩ nhiên, phá thai có thể là lựa chọn tốt trong những trường hợp cùng cực như hãm hiếp hay sức khỏe kém, hay nghèo đói. Nhưng nó đã bị đẩy đến mức cực đoan, lấy đi khỏi người phụ nữ trách nhiệm và sự tôn trọng đối với thứ quý giá nhất: bản thân sự sống. Lựa chọn đúng đắn không phải là giữa việc phá thai hay giữ đứa trẻ, mà là việc có mang hay không. Các biện pháp tránh thai và giáo dục nên được phổ biến rộng rãi cho tất cả phụ nữ.

In-vitro fertilization
Thụ tinh nhân tạo
Con người trưởng thành đã dần bị tước đi trách nhiệm của họ đối với sự sống, thứ đã trở thành đối tượng của lợi nhuận và đầu cơ, thông qua việc hợp pháp hóa người mang thai hộ (thuê tử cung), ngân hàng tinh trùng (mua tinh trùng), thụ tinh nhân tạo (mua trứng và thai nhi), nhận con nuôi như được thảo luận ở trên (mua trẻ em), lựa chọn gen (mua bộ gen di truyền tốt hơn), cùng với các trang web "tìm bạn" quốc tế (mua vợ) và phẫu thuật chuyển giới tính (mua một giới tính mới).

Đến đây chúng ta đã thấy những nền tảng cơ bản của xã hội loài người, những thứ đã cho phép chúng ta tiến hóa và tồn tại, bị hủy hoại, và quan sát cách mà sự hủy hoại ấy được thực hiện, vẫn còn một câu hỏi bỏ ngỏ: tại sao ? Có nhiều câu trả lời. Từ góc nhìn của giới "tinh hoa" thái nhân cách, quá trình ấy cho phép:

- Sự bình thường hóa một trong những thú tiêu khiển ưa thích của chúng: ấu dâm, thông qua quá trình tình dục hóa trẻ em và sự hợp pháp hóa việc nhận con nuôi bởi các cặp đồng tính. Ai biết được còn bao lâu nữa trước khi một trong những khoái lạc lớn nhất của chúng được bình thường hóa ?

- Việc hoàn thành hệ tư tưởng bảo thủ hiện đại (neocon) trong đó tất cả mọi thứ đều là nguồn lợi nhuận và mục tiêu cho lòng tham. Đó là lý do cho việc thương mại hóa cái phần thiêng liêng cuối cùng của nhân loại: trẻ em, việc mang thai, thai nhi, v.v...

- Sự cô lập của mỗi cá nhân về mặt đạo đức và xã hội (hủy hoại gia đình), khiến mỗi cá nhân trở thành một con mồi dễ dàng và một nô lệ dễ bảo hơn. Đây là bài học vỡ lòng của những con thú săn mồi: một con mồi bị cô lập là một con mồi dễ dàng.

Tuy nhiên, đây có thể không phải là toàn bộ bức tranh. Ở mức độ căn bản hơn, âm mưu đằng sau quá trình này thậm chí có thể còn đen tối hơn nữa. Đây là điểm mà "Mối Liên hệ Con người - Vũ trụ" đi vào bức tranh này, và bạn sẽ thấy rằng, từ góc nhìn này, mọi thứ trở nên thực sự kỳ lạ.

Cắt đứt Mối Liên hệ Con người - Vũ trụ

Một số thí nghiệm tâm thần động học đã cung cấp nhiều bằng chứng cho thấy rằng con người có ảnh hưởng lên các sự kiện vĩ mô. Tuy nhiên, ảnh hưởng này không nhất thiết là khớp với ý định của các đối tượng thí nghiệm. Nhiều yếu tố khác cũng có liên quan, bao gồm tâm lý vô thức, nỗi sợ sâu bên trong, trạng thái tinh thần, niềm tin, v.v...

Tôi không đi sâu vào điểm này bởi vì, như được nhắc đến ở trên, cuốn sách của tôi Biến đổi Trái Đất và Mối Liên hệ Con người - Vũ trụ, đặc biệt là phần cuối cùng (mối liên hệ Con người - Vũ trụ) hoàn toàn dành riêng cho chủ đề này: cách mà các cá nhân gây ảnh hưởng lên thế giới bên ngoài, thậm chí là ở mức độ vĩ mô.

Hiện tượng này - khả năng gây ảnh hưởng lên các sự kiên vĩ mô - vũ trụ của con người - có thể là một yếu tố quan trọng điều khiển môi trường của chúng ta và đó có thể là lý do tại sao giới tinh hoa của chúng ta chế giễu và "dìm" một cách có hệ thống cái gọi là lĩnh vực "siêu tâm lý học" (parapsychology).

Robert Jahn and Brenda Dunne, heads of the PEAR project at Princeton University
Robert Jahn và Brenda Dunne, lãnh đạo dự án PEAR ở Trường Đại học Princeton
Dù sao đi nữa, một trong những thí nghiệm tâm thần động học công phu và có tính khoa học nhất đã được thực hiện bởi Tiến sĩ Robert Jahn, Chủ nhiệm Khoa Công nghệ và Khoa học Ứng dụng tại Trường Đạị học Princeton, và Brenda Dunne, một nhà tâm lý học tại Trường Đại học Chicago.

Đây là một trong số rất ít những nghiên cứu "siêu tâm lý học" đã được công nhận bởi một tổ chức khoa học danh tiếng, Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Hoa Kỳ. Họ kết luận rằng thí nghiệm này được tiến hành rất nghiêm ngặt và kết quả của nó không thể gán cho sự ngẫu nhiên.

Trong khoảng thời gian 12 năm, Jahn và Dunne tiến hành gần 2,5 triệu thử nghiệm trong đó những người tham gia ngồi trước một Máy Tạo Sự kiện Ngẫu nhiên đã được kiểm định một cách cẩn thận. Máy này sẽ tạo ra một chuỗi con số 1 hoặc 0 một cách hoàn toàn ngẫu nhiên. Những người tham gia sẽ tìm cách tác động bằng tinh thần để cho cỗ máy tạo ra nhiều số 1 hơn số 0, và rồi đảo ngược lại, và cuối cùng, không tìm cách gây tác động gì hết.

Jahn và Dunne thấy rằng kết quả tổng hợp thu được lệch đi so với xác suất ngẫu nhiên một cách có hệ thống, và kết quả này có ý nghĩa cao về mặt thống kê vì nó được tổng hợp từ hàng triệu thử nghiệm, với hàng chục thí nghiệm kiểm chứng cho kết quả tương tự. Xác suất những kết quả này được tạo ra do ngẫu nhiên là một phần một ngàn tỷ.

Jahn and Dunne's experiment. Cumulated results. Top curve displays the shift for a ‘1’ intent, bottom curve displays the shift for a ‘0’ intent
Kết quả tổng hợp của thí nghiệm của Jahn và Dunne. Đường trên cùng là sự dịch chuyển của ý nguyện "1", đường dưới cùng là sự dịch chuyển của ý nguyện "0".
Jahn và Dunne không chỉ nghiên cứu cách các cá nhân gây ảnh hưởng lên các sự kiện "ngẫu nhiên", mà họ còn nghiên cứu ảnh hưởng gây ra bởi từng cặp đối tượng, và đây là điểm mà nó trở nên thực sự thú vị.

Phòng Thí nghiệm PEAR thực hiện một loạt nghiên cứu trên các cặp đối tượng, trong đó mỗi cặp hợp tác với nhau khi tìm cách tác động bằng tinh thần lên cỗ máy tạo sự kiện ngẫu nhiên. Trong 256.500 thử nghiệm, thực hiện bởi 15 cặp trong 42 chuỗi thí nghiệm, nhiều cặp còn tạo ra những kết quả "riêng biệt", không giống với hiệu ứng tạo ra bởi mỗi cá nhân thử nghiệm một mình.

Các cặp khác giới tính và đã biết nhau từ trước có hiệu ứng cộng hưởng mạnh mẽ, tạo ra ảnh hưởng mạnh hơn 3,5 lần so với ảnh hưởng của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, các cặp "gắn kết", những cặp [khác giới] có quan hệ tình cảm với nhau, có ảnh hưởng mạnh hơn cả. Ảnh hưởng của họ mạnh gần gấp sáu lần ảnh hưởng của những đối tượng riêng lẻ.

Ngược lại, các cặp đồng giới tính có xu hướng tạo ảnh hưởng tiêu cực. Những cặp loại này có kết quả yếu hơn kết quả mỗi người trong số họ đạt được một mình. Thậm chí với 8 cặp đối tượng, kết quả họ thu được ngược hẳn với những gì họ muốn.

Những cặp đối gắn kết khác giới tính, loại cặp đôi có ảnh hưởng mạnh nhất trong tất cả, có ba điểm chung cơ bản như sau:

- khác giới, nghĩa là mang tính bổ sung lẫn nhau giữa nam và nữ. Để hiệu ứng bổ sung này được thể hiện một cách hoàn toàn, người nam giới phải có nam tính (khỏe mạnh, dũng cảm, có lý trí cao) trong khi người phụ nữ phải có nữ tính (sáng tạo, nhạy cảm về tình cảm, dịu dàng). Trên thực tế, sự đồng tính hóa của con người hủy hoại khả năng bổ sung lẫn nhau này với việc tạo ra những người đàn ông ẻo lả như phụ nữ và những người phụ nữ khô khốc như đàn ông.

- sự gắn kết thông qua tình yêu, thứ từng được coi là thiêng liêng, kết hợp người đàn ông và người phụ nữ ở các cấp độ thể xác, tình cảm và tâm linh. Sự thay thế dần dần của "tình yêu" bằng "tình dục" trên thực tế đã làm suy giảm sự gắn kết này.

Sự chia sẻ, lòng tin, và sự tận tụy lâu dài chứng nhận bởi lời thề khi kết hôn đã bị hủy hoại bởi sự bình thường hóa của ly hôn, sống thử, sống phóng túng.

Ảnh
Trong khi các cặp khác giới gắn kết, loại cặp đôi có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất lên hiện thực xung quanh chúng ta, đã liên tục bị ức chế đến độ gần như hủy hoại những khả năng ấy của họ, sự bình thường hóa tình dục đồng giới - bao gồm cả đồng tính luyến ái giả - đã tạo ra số lượng ngày càng gia tăng những cặp đồng giới, loại cặp đôi mà như Jahn và Dunnes đã chứng tỏ, không chỉ có ảnh hưởng yếu hơn từng cá nhân đơn lẻ, mà còn có thể gây ra ảnh hưởng ngược lại với những gì họ dự định.

Liệu có phải là ngẫu nhiên không khi những quá trình thoái hóa tưởng chừng không liên quan được mô tả ở trên (sự phát triển của đồng tính luyến ái, sự đồng tính hóa con người, sự hủy hoại của tình yêu và hôn nhân) tất cả đều góp phần làm suy yếu "mối liên hệ con người - vũ trụ" ? Nếu ai đó muốn giảm thiểu ảnh hưởng lên các sự kiện vũ trụ vĩ mô của nền văn minh chúng ta, cách tốt nhất để làm điều đó là thực hiện tất cả những thứ được liệt kê ở trên.

Dĩ nhiên, hôn nhân, gia đình, hôn nhân khác giới, nam tính và nữ tính không đảm bảo hạnh phúc hoàn hảo cho tất cả mọi người. Có nhiều cặp vợ chồng không hạnh phúc. Tuy nhiên, nếu chúng ta đến cái điểm trong quá trình suy đồi nơi mà chúng ta phải lựa chọn giữa hai cái xấu, sẽ là tốt hơn nếu chúng ta chọn cái xấu ít tồi tệ hơn. Từ cách nhìn này, gia đình và lối sống truyền thống vẫn tốt hơn là cái thế giới "hiện đại" mà giới "tinh hoa" đang áp đặt lên cho chúng ta.

Khi viết những dòng cuối cùng của bài viết này, tôi cuối cùng quyết định nói với bà tôi về Conchita Wurst. Trong lần thăm bà gần đây nhất, tôi ngập ngừng mô tả người chiến thắng cuộc thi Eurovision: "chà, để cháu nghĩ xem nào, đấy là một người đàn ông, đã trải qua phẫu thuật và có một số đặc điểm phụ nữ, ừm..., nhưng lại không hẳn là một phụ nữ. Ừm.., và anh ta thay đổi tên, anh ta ăn mặc như phụ nữ và trang điểm, nhưng anh ta lại để râu quai nón".

Một sự im lặng kéo dài tiếp nối mô tả của tôi. Tôi đoán bà tôi đang cố gắng tạo ra trong đầu hình ảnh của nhân vật khác thường này. Sau một hay hai phút, bà tôi chỉ nói: "il manque pas d'air!"; đây là một thành ngữ hơi lạc hậu có nghĩa là "thật là đầy khiêu khích !"

Trong khi giới truyền thông chính thống ca ngợi Conchita Wurst về lòng can đảmtài năng của cô ta, tất cả những gì bà tôi có thể thấy là điều trái ngược: một sự khiêu khích táo tợn.

Như câu ngạn ngữ cổ xưa từng nói: "Từ miệng đứa trẻ [hay bà lão] mà sự thật đi ra". Nó cũng áp dụng trong lịch sử, đặc biệt trong những thời đại suy đồi, khi mà qua hết thế hệ này đến thế hệ khác, lý trí, đạo đức, và cách suy nghĩ tỉnh táo dần dần bị xói mòn và hủy hoại.

Sodom And Gomorrah
Tác phẩm Sự Hủy diệt của Sodom và Gomorrah, tác giả John Martin. Một ví dụ khả dĩ về mối liên hệ giữa "tội lỗi" con người và phản ứng của vũ trụ.