Lịch Sử Bí MậtS


Eagle

Hay Nhất Mạng: Mỹ đã biết trước nhưng lừa Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng để nhảy vào Thế Chiến II

Pearl Habor attack
1. Cuộc tấn công không báo trước

Ngày 7/12/1941, Nhật Bản bất ngờ tấn công hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ tại Trân Châu Cảng,

Trong vòng vài giờ, quân Nhật cũng đánh Philippines, Wake Island, Guam cùng các mục tiêu khác ở Thái Bình Dương. Các căn cứ của Mỹ ở nơi nào cũng bị bất ngờ.

Điều kì lạ là các căn cứ quân sự Mỹ không hề được cảnh báo về một cuộc tấn công quy mô lớn của Nhật. Vì thế khi quân Nhật tấn công, quân đội Mỹ đã hoàn toàn bị bất ngờ, toàn bộ các chiến hạm của Mỹ đều bị đánh chìm hoặc bị hư hỏng nặng, 2400 lính Mỹ thiệt mạng.

Nhận xét: Từ bài Did FDR Provoke Pearl Harbor?, chúng ta biết thêm những điểm sau:

Thủ tướng Nhật khi đó là Fumimaro Konoye hết sức không muốn một cuộc chiến tranh với Hoa Kỳ.

Ngày 18/7/1941, Konoye bổ nhiệm Đô đốc Teijiro Toyoda, một người thân Anh - Mỹ làm chỉ huy Hải quân. Phản ứng của Mỹ: Ngày 25/7, toàn bộ tài sản của Nhật Bản tại Mỹ bị đóng băng, chấm dứt mọi hoạt động thương mại, kể cả xăng dầu vốn rất cần thiết cho nước này.

Ngày 28/8, thông qua đại sứ Mỹ tại Nhật Bản Joseph Grew, Konoye viết thư cho Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt khẩn nài được gặp mặt. Ngày 3/9, bức thư đó được bêu riếu trên khắp các tờ báo của Mỹ.

Ngày 30/9, Grew viết cho Washington thông báo rằng Konoye sẵn sàng đi đến bất cứ đâu để gặp Tổng thống Mỹ. Không một lời đáp từ phía Washington. Ngày 16/10, chính phủ của Konoye sụp đổ.

Trong tháng 11, Nhật Bản đề xuất tự nguyện chấm dứt chiến tranh ở Trung Quốc và rút quân khỏi Đông Dương để đổi lấy đảm bảo không bị Hoa Kỳ tấn công. Washington từ chối.

Tại cuộc họp chính phủ ngày 25/11, Bộ trưởng Chiến tranh Henry Stimson nói lên ý nghĩ của tất cả các thành viên cuộc họp: "Vấn đề bây giờ là làm sao chúng ta có thể lái cho bọn họ (người Nhật) nổ phát súng đầu tiên mà không gây quá nhiều nguy hiểm cho chúng ta."


Newspaper

Dự án Mockingbird của CIA: Biến truyền thông thành công cụ tuyên truyền, tâm lý chiến

fake news
Công cụ tâm lý chiến trong Dự án Mockingbird hiện đại
"Dự án Mockingbird" (Chim nhại) - được thai nghén từ cuối thập niên 40 thế kỷ trước - là chiến dịch bí mật của Cục Tình báo trung ương Mỹ được thành lập để thâm nhập và kiểm soát báo chí nói riêng và giới truyền thông Mỹ nói chung trong suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh. Trong cuốn sách "Mockingbird: sự phá hoại tự do báo chí", tác giả Alex Constantine ước tính có khoảng 300 nhân viên CIA tham gia vào "các nỗ lực tuyên truyền" của cơ quan tình báo.

Tên gọi "Dự án Mockingbird" được tiết lộ lần đầu tiên trong cuốn sách "Katharine vĩ đại: Katharine Graham và Washington Post" (xuất bản năm 1979) của tác giả Deborah Davis. Năm 1953, mạng lưới điệp viên phá hoại giới truyền thông Mỹ bắt đầu nằm dưới sự giám sát trực tiếp của Giám đốc CIA lúc đó là Allen Dulles.

Dự án Mockingbird cũng được sử dụng để bí mật lật đổ chính quyền dân chủ Iran năm 1953 (Chiến dịch Ajax) và kiểm soát báo chí trong suốt sự kiện Vịnh Con lợn. Phân tích các tài liệu CIA, các chuyên gia có thể xác định được danh tính của hơn 50 nhà báo Mỹ được CIA thuê dụng trực tiếp.

Năm 1955, Tổng thống Eisenhower cho thành lập Ủy ban 5412 để giám sát các hoạt động bí mật của CIA nhưng Giám đốc Allen Dulles khéo léo từ chối cung cấp thông tin về các chiến dịch mật của CIA cho ủy ban này.

Nhận xét: Cứ nhìn giới truyền thông phương Tây hiện nay thì có thể thấy Dự án Mockingbird đang hoạt động mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Mặc dù nhiều người đã thức tỉnh và nhận ra những lời truyền truyền dối trá trắng trợn từ các tổ chức này, đa số người dân phương Tây vẫn nằm dưới bùa phép của thứ mà họ tin là "nền truyền thông tự do".


Che Guevara

CIA mưu sát Fidel Castro 638 lần, nhưng ông vẫn thọ đến 90 tuổi và ra đi bình an

Fidel Castro
© Uppity Woman - WordPress.com
Fidel Castro, cha đẻ của cuộc Cách mạng Cuba, đã chiến thắng Mỹ khi vượt qua hàng trăm âm mưu ám sát được cho là do CIA thực hiện, cho dù Washington đã dùng chất ảo giác LSD, mafia, bộ đồ lặn có virut lao phổi và xì gà phát nổ.

"Nếu vượt qua được các âm mưu ám sát là một bộ môn Thế vận hội, chắc chắn tôi sẽ đoạt huy chương vàng", Lãnh tụ Castro từng nói. Cựu giám đốc cơ quan tình báo Cuba Fabian Escalante cho biết, đã có tổng cộng 638 âm mưu ám sát nhằm vào ông Castro.

Dưới đây là những cách thức không tưởng mà Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) đã tiến hành nhằm tước đi mạng sống của lãnh tụ Cuba nhưng không thành.

1. Mượn tay Mafia

Sau khi một số lượng lớn tài liệu mật của CIA được công bố vào năm 2007, chính phủ Cuba cuối cùng cũng nắm trong tay những thông tin xác thực để lên án Mỹ cho những hành vi nhằm lật đổ chính phủ của nước này.

Pistol

Hay Nhất Mạng: Tổng thống Kennedy và em trai Robert Kennedy bị sát hại bởi giới An ninh - Quân sự Mỹ

John F Kennedy
© Sofa King Podcast
Giới truyền thông đĩ điếm, như tờ Telegraph của Anh, đã dành nhiều công sức phản bác những tài liệu vạch trần các âm mưu của chính phủ. Ví dụ, hàng ngàn kiến trúc sư địa ốc cao tầng, các kỹ sư xây dựng cấu trúc, các nhà vật lý, các nhà hóa học nano, các chuyên gia hủy phá, những nhân viên cứu hộ đầu tiên tại hiện trường, các phi công quân sự và dân sự và các cựu quan chức chính phủ đã cung cấp vô số bằng chứng rằng bản tường trình chính thức về sự kiện 11/9 của nhà nước Mỹ là một câu chuyện cổ tích hư cấu mâu thuẫn đối nghịch với tất cả các bằng chứng và các định luật vật lý học, nhưng bọn báo chí đĩ điếm vẫn bác bỏ, cho đó chỉ là những "thuyết âm mưu".

Cũng tương tự như vậy, từng có những người, chẳng hạn như ông James W. Douglass, đã đưa ra luận điểm chứng minh không có chút khe hở nào rằng Tổng thống John F. Kennedy không bị ám sát bởi Oswald mà bởi chính giới An ninh Quân sự chống cộng hoang tưởng của ông ta, và họ cũng bị bác bỏ cho là những thuyết âm mưu.

Báo cáo của Ủy ban Tường trình sự kiện 9/11 và báo cáo của Ủy ban Warren (điều tra sự kiện ám sát tổng thống Kennedy) là những trò bưng bít giấu giếm. Phó tổng thống Dick Cheney và đám tân bảo thủ mà ông ta tài trợ cần một sự kiện "Trân Châu Cảng mới" để bắt đầu các cuộc tấn công quân sự vào các quốc gia vùng Trung Đông đang có những chính sách đối ngoại độc lập thay vì làm chư hầu cho Mỹ / Israel. Sự kiện 11/9 chính là màn "Trân Châu Cảng mới" được dàn dựng của chúng và sự thật này phải được che đậy đi khi các gia đình nạn nhân vẫn khăng khăng tiếp tục đòi mở một cuộc điều tra vào sự kiện 9/11 và không thể bị mua chuộc bằng những số tiền khổng lồ.

Nhận xét: Khi John Kennedy bị sát hại 53 năm trước, hy vọng cuối cùng để nước Mỹ trở thành sức mạnh của cái thiện, ánh sáng thực sự của tự do, dân chủ trên thế giới đã chết đi cùng với ông. Nếu ông không bị ám sát, thế giới này rất có thể đã đi theo một hướng khác. Giai đoạn khốc liệt nhất của chiến tranh Việt Nam đã không diễn ra. Hàng chục cuộc chiến tranh khác với hàng chục đất nước tan hoang và hàng chục triệu người chết cũng có thể đã không diễn ra.

Xem thêm:


Ice Cube

Thời kỳ Tiểu Băng hà Tiền Trung cổ: Dịch bệnh, đế chế sụp đổ, di cư hàng loạt

late antiquity little ice age
Khi đề cập đến tình trạng biến đổi khí hậu, hầu hết mọi người sẽ nghĩ đến tình trạng gia tăng nhiệt độ, hạn hán, và các cơn bão—loại tình trạng biến đổi khí hậu mà Trái Đất đang trải qua hiện nay. Cho đến nay có rất nhiều ghi chép về cách thức hạn hán và những tác hại của nó đã khiến các đế chế và vương quốc sụp đổ.

Hiện nay, một nhóm các nhà nghiên cứu đang cân nhắc đến một loại khác của tình trạng biến đổi khí hậu—một thời kỳ tiểu băng hà—mà họ nói đã khiến một số đế chế ở Á-Âu, bao gồm đế chế La Mã, lụi tàn hoặc sụp đổ và có thể đã thúc ép các đàn chuột mang dịch bệnh di tản đến khu vực Đông Âu.

Các tác giả nghiên cứu, dẫn đầu bởi GS Ulf Büntgen từ Viện Nghiên cứu Liên bang Thụy Sĩ, đã viết một bài đăng trên tạp chí Nature Geoscience, trong đó nói rằng các biến đổi khí hậu đã gây nên những "sự tái tổ chức xã hội" ở Châu Á và Châu Âu.

"Đặc biệt, giai đoạn thế kỷ 6 trùng khớp với giai đoạn phát triển và lụi tàn của các nền văn minh, các loại bệnh dịch, sự di dân và tình trạng bất ổn định chính trị", bản tóm tắt của của 16 đồng tác giả nghiên cứu cho biết.

Nhận xét: Xem thêm:


Calculator

Lập trình viên máy tính đầu tiên là một phụ nữ - Ada Lovelace

ada lovelace early computer programming
Ada Lovelace
Ada Lovelace là nhà nữ toán học trong những năm 1800, những di sản của bà đến nay vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Bà nổi tiếng vì được biết đến như là "lập trình viên máy tính đầu tiên trên thế giới", danh hiệu đó đã dẫn đến một số phê bình mang tính săm soi và độc ác và phủ nhận vai trò chính xác của Ada Lovelace trong xây dựng thuật toán được công bố dưới tên của bà. Nhưng các cuộc tranh luận đó đã bỏ qua di sản thật sự của bà: Lovelace là người đầu tiên nhận ra được tiềm năng thật sự của máy vi tính.

Lovelace được biết đến vì đã làm việc với "Động cơ Phân tích" của nhà toán học - kỹ sư Charles Babbage. Đây là một cỗ máy không bao giờ được hoàn thành nhưng được nhận định chính là tiền thân của máy tính hiện đại.

"Bước tiến vượt bậc chính là bà đã hiểu được rằng 'Động cơ Phân tích' có thể làm nhiều hơn việc tính toán các con số," Suw Charman - Anderson, người sáng lập ngày Ada Lovelace, ngày vinh danh những phụ nữ có thành tựu trong khoa học và công nghệ vào ngày 13 tháng 10. "Bà hiểu rằng nếu có thể chuyển hoá những thứ như âm nhạc hay nghệ thuật theo một trật tự, thì khi đó chúng ta có thể sử dụng toán logic để lập trình 'động cơ phân tích' để tạo nên đồ hoạ hay âm nhạc. Đây là thứ mà không ai hiểu vào thời điểm đó."

Lovelace, người có mối quan hệ công việc rất chặt chẽ với Babbage, bao gồm chương trình máy vi tính đầu tiên trong ghi chép của bà khi bà dịch lại một bản sao trong số các bài thuyết trình của Babbage. Đó là mô tả về một thuật toán để tính chuỗi số Bernoulli, sử dụng "Động cơ Phân tích". Thông tin sẽ được đưa vào máy có sử dụng các thẻ đục lỗ, có hiệu suất tính toán cao hơn cả chiếc máy cũ của Babbage.

Nhận xét: Những công lao đóng góp của Ada Lovelace đã được ghi nhận thông qua việc lấy tên bà đặt cho ngôn ngữ lập trình Ada.


Attention

"Curveball": Khởi điểm của cuộc xâm lược và thảm sát 1,5 triệu mạng người Iraq bởi Hoa Kỳ

colin powell UN iraq nuclear
Ngoại trưởng Mỹ Colin Powell tuôn ra những lời dối trá về Iraq tại Liên Hiệp Quốc dựa trên thông tin bịa đặt của Curveball
Nước Mỹ đang tập trung sự chú ý vào một cuốn sách mới xuất bản có tên "Curveball: Spies, Lies and the Con Man Who Caused a War" (Curveball: Những trò gián điệp, gian lận và kẻ lừa gạt gây ra chiến tranh), trong đó đưa ra một số thông tin chi tiết về một kẻ đào tẩu từ Iraq được coi là "chịu trách nhiệm" về những thông tin tình báo giả của CIA liên quan đến Chương trình vũ khí hủy diệt hàng loạt (WMD) của Iraq.

Nội dung cuốn sách cũng cho thấy, các quan chức hàng đầu của Mỹ đã "cố tình" tin tưởng vào những thông tin không có căn cứ này như thế nào?

"Curveball" là ai?

Phóng viên Bob Drogin là người chuyên trách về đề tài an ninh quốc gia và tình báo tại Washington kể từ năm 1998 - trong cuốn sách đã cung cấp một số thông tin về một kẻ đào tẩu được coi là nguồn gốc ban đầu của một loạt các thông tin tình báo giả về các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt tại Iraq, được coi là nguyên cớ chính để Mỹ đưa quân vào lật đổ chính quyền của Saddam Hussein.

Drogin đã kể lại chi tiết về cách mà "Curveball" - mật danh của một kẻ nặc danh người Iraq đã đào tẩu sang Đức vào năm 1999 - đã trở thành nguồn tin chính của tình báo Mỹ như thế nào, ngay cả khi Cơ quan Tình báo trung ương Mỹ (CIA) không biết thực sự hắn là ai tới tận thời điểm chiến tranh bắt đầu.

Biohazard

Báo Argentina nêu bật hậu quả tàn khốc của chất độc màu da cam tại Việt Nam

Operation Ranch Hand, spraying Agent Orange over Vietnam
Chiến dịch Ranch Hand: Rải chất độc màu da cam lên Việt Nam
Trang mạng ArgenPress của Argentina ngày 4/9 đăng bài viết của nhà báo Carlos Rivodo tố cáo những hậu quả thảm khốc của chất độc da cam/điôxin do quân đội Mỹ rải trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam.

Theo phóng viên TTXVN tại Buenos Aires, dưới tiêu đề "Chất độc da cam/dioxin, tội ác chống lại nhân dân Việt Nam", nhà báo Rivodo nhấn mạnh trong cuộc chiến tranh xâm lược tại Việt Nam, quân đội Mỹ đã sử dụng số bom đạn nhiều gấp 4 lần số bom đạn được sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ Hai, hậu quả là 3 triệu người Việt Nam đã thiệt mạng và 4 triệu người bị thương.

Trong bài viết, nhà báo Rivodo tố cáo quân đội Mỹ đã sử dụng vũ khí hóa học hủy diệt với chất khai quang tại Việt Nam. Ngày 10/8/1961, máy bay trực thăng H-34 của Không lực Mỹ bắt đầu rải chất diệt cỏ xuống rừng Việt Nam, khởi đầu cho chiến dịch mang tên "Ranch Hand" trong cuộc chiến tranh hóa học ở Việt Nam.

Trong chiến dịch này, quân đội Mỹ đã sử dụng 3 chất hóa học chính, trong đó có chất độc da cam/dioxin. Cho tới thời điểm hiện tại, dioxin vẫn là hóa chất nguy hiểm nhất mà con người có thể tạo ra. Chất độc này tồn tại không giới hạn trong môi trường và có thể chịu mức nhiệt lên tới 1.000 độ C, không tan trong nước. Chất dioxin có thể thâm nhập cơ thể, ăn vào máu, nhiễm vào sữa mẹ, gây các bệnh ung thư và những dị tật ở thai nhi mang tính di truyền.

Nhận xét: Và bây giờ, Monsanto, một trong những công ty hàng đầu sản xuất chất độc màu da cam, đang được chào đón tại Việt Nam với những hạt giống tử thần của họ.


Rocket

"Tôi sẽ không bao giờ xin lỗi" - Nhìn lại vụ tàu chiến Mỹ bắn rơi máy bay dân sự Iran trong vùng biển nước này

Iranian flight 655
Chiếc máy bay chở khách mang số hiệu 655 của Iran đã bị tàu tuần dương Vincennes lớp Aegis của Mỹ bắn rơi ngày 3/7/1988. Một phần tư thế kỷ sau đó, Vincennes hầu như đã bị lãng quên, nhưng vụ việc vẫn được coi là thảm họa thứ 7 về mức độ kinh khủng nhất trong ngành hàng không thế giới và là một trong những điều "hổ thẹn không thể tha thứ" của Lầu Năm Góc.

Chiếc máy bay Airbus A300 của Iran bị bắn rơi khi bay qua khu vực đang có giao tranh hải quân - một trong nhiều cuộc xung đột trong "Cuộc chiến dầu mỏ" - ở eo biển Hormuz. Thuyền trưởng của tàu Vincennes, Will Rogers III, đã nhầm máy bay thương mại của Iran là một máy bay phản lực chiến đấu F - 14 và đã cho bắn tên lửa đất đối không SM - 2. Thảm kịch đã khiến 290 hành khách thiệt mạng, trong đó có 66 trẻ em.

Sau sự cố năm 1988, các quan chức Mỹ đã nói dối rất nhiều và đổ lỗi cho phi công Iran. Ngày 19/8/1988, gần 7 tuần sau khi thảm họa xảy ra, Lầu Năm Góc đã đưa ra một báo cáo 53 trang về vụ việc và kết luận rằng "thuyền trưởng và tất cả các nhân viên trên tàu Vincennes đã hành động đúng". 8 năm sau, chính phủ Mỹ mới chịu thừa nhận là họ đã gây ra thảm kịch và phải bù đắp cho gia đình các nạn nhân, sau đó bày tỏ sự "hối tiếc sâu sắc", nhưng không một lời xin lỗi.

Cụ thể, ngày 3/7/1988, tại cuộc họp báo đầu tiên của Lầu Năm Góc về vụ việc, Đô đốc William Crowe, Chủ tịch Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ, nói rằng máy bay của Iran đã bay ở độ cao gần 3 km và giảm dần tốc độ từ 230m/giây, "đối đầu trực tiếp" với tàu chiến Vincennes. Tuy nhiên, trên thực tế, báo cáo ngày 19/8 của Phó Đô đốc William Fogarty thuộc Bộ Tư lệnh Mỹ đặc trách khu vực Trung Á và Trung Đông đã kết luận (từ các đĩa máy tính được tìm thấy bên trong hệ thống trung tâm thông tin tác chiến của tàu Vincennes) rằng máy bay của Iran đã dần "nâng độ cao" lên 3,6 km với tốc độ chậm hơn là 195m/giây.

Cloud Precipitation

Bằng chứng khảo cổ cho thấy truyền thuyết đại hồng thủy là có thật ở Trung Quốc

The Deluge (1834).
© Public DomainThe Deluge (1834)
Các nhà khảo cổ tìm ra bằng chứng của một trận đại hồng thủy từng xảy ra ở Trung Quốc vào thời xa xưa...

Truyền thuyết Trung Quốc tin rằng cách đây 4.000 năm từng xảy ra một trận đại hồng thủy, dân gian mô tả nó như sau:

"Cơn đại hồng thủy trông như một vạc nước sôi bất tận, tràn ngập khắp nơi. Những cơn sóng cao ngút mắt đập vào hai bờ sông Hoàng Hà, phá hủy tất cả mọi thứ trên đường đi. Trận lũ tràn vào các con đường trong các thành phố sơ khai của Trung Quốc cổ, cuốn trôi vùng đất trồng trọt xung quanh..."

Các nhà sử học trước nay chưa tìm ra bằng chứng khảo cổ chứng minh sự tồn tại của trận lũ lụt này, cho đến ngày 4-8 vừa qua. Nhà địa chất học Wu Qinglong (đại học Nam Kinh - Trung Quốc) công bố trên tạp chí Science rằng đã tìm thấy dấu vết một trận lụt lớn ở sông Hoàng Hà vào khoảng năm 1.900 trước Công nguyên - cùng thời điểm với trận đại hồng thủy trong truyền thuyết.

Nhận xét: "Giờ đây ta đã biết đại hồng thủy ở Trung Quốc dường như có thật, vậy có thêm bao nhiêu truyền thuyết cổ xưa về thiên tai chứa đựng ít nhiều sự thật trong đó?" ~ Nhà khoa học David Montgomery (ĐH Washington)

Xem thêm: Sóng thần cao gần 100 m từng càn quét Trái Đất 10.000 năm trước